Chuyên gia: 5 năm tới là giai đoạn tăng trưởng vượt trội của các ngân hàng tư nhân
Chặng đường của năm 2025 đã chạm đến những tháng cuối cùng, và đánh giá của hầu hết các chuyên gia cũng như tổ chức phân tích kinh tế về tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay là rất lạc quan.
Trong những ngày gần đây, nhiều tổ chức đã điều chỉnh tăng dự báo GDP cả năm của nước ta trên cơ sở kết quả tích cực của 3 quý đầu năm. Cụ thể, tại báo cáo cuối tháng 10, HSBC đã điều chỉnh nâng nâng dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2025 của Việt Nam lên 7,9% (tăng so với mức dự báo 6,6% trước đây) và 6,7% cho năm 2026. Hay báo cáo kinh tế vĩ mô của Standard Chartered công bố cuối tháng 10 cũng đã nâng dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2025 lên 7,5% (từ mức 6,1% trong báo cáo hồi tháng 7) và 7,2% cho 2026.
Tại Diễn đàn Đầu tư Việt Nam 2026 vừa diễn ra hôm 4/11, nhiều chuyên gia cùng chung nhận định rằng tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam năm nay sẽ cao hơn năm ngoái. Dự báo cho 2026, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica cho rằng các lĩnh vực kinh tế phục hồi và tăng trưởng ấn tượng cùng với sự ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô và niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư, cho phép chúng ta tin tưởng rằng tăng trưởng năm sau sẽ cao hơn năm nay.
Tín dụng có thể tăng gấp đôi trong 5 năm tiếp theo
Mặc dù lạc quan vào triển vọng tăng trưởng, TS. Lê Duy Bình nhấn mạnh rằng mức tăng trưởng cao đến đâu còn phụ thuộc vào cách chúng ta ứng phó với các rủi ro: rủi ro chính sách tiền tệ, lạm phát, nợ công, cũng như mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc nhiều vào vốn và tín dụng.
"Đây là những vấn đề cần tính toán kỹ trong quá trình điều hành chính sách, để xác định đúng vai trò của từng chủ thể, từ Nhà nước đến doanh nghiệp, trong quá trình tăng trưởng", ông Bình nói thêm.
Việc nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tín dụng, kể cả về vốn trung dài hạn, đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng lưu ý trước Quốc hội trong một phát biểu hồi tháng 6.
Theo bà Hồng, tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng/GDP (tổng sản phẩm nội địa) là 134%, do đó nếu tiếp tục dựa vào nguồn vốn ngân hàng sẽ tiềm ẩn rủi ro và gây hệ lụy cho nền kinh tế, khó có thể tăng trưởng cao, khó đi đôi với bền vững. "Đây là vấn đề các bộ ngành điều hành kinh tế vĩ mô cần hết sức lưu ý khi cân đối các nguồn vốn cho mục tiêu tăng trưởng", Thống đốc cho hay.
Trong một ước tính gần đây, FiinRatings dự báo tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP có thể sẽ đạt khoảng 146% vào cuối năm 2025, so với mức khoảng 134% vào cuối năm 2024, trên cơ sở tín dụng tăng trưởng mạnh của cả năm. Tính đến 29/9/2025, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 13,4% so với cuối năm 2024, mức cao nhất trong vòng 5 năm gần đây, tổng dư nợ ước vượt 17,7 triệu tỷ đồng.
Trong trung hạn, tỷ lệ này sẽ tiếp tục tăng trong bối cảnh Chính phủ đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số đến năm 2030.
TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni nhận định muốn thúc đẩy tăng trưởng thì cần rất nhiều yếu tố, trong đó vốn là yếu tố vô cùng quan trọng, bên cạnh các yếu tố lao động, khoa học, thể chế, môi trường… Vị chuyên gia kỳ vọng nếu để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng 10%/ năm từ nay đến 2030, tín dụng bình quân mỗi năm cần tăng khoảng 15%. Như vậy trong 5 năm tới, quy mô tín dụng sẽ tăng gấp đôi, kéo theo quy mô tài sản của ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan khác tăng tương ứng.
"Giả sử chúng ta đặt bài toán tăng trưởng 10% từ nay đến năm 2030, tức 5 năm nữa, đây là tăng trưởng thực. Nếu cộng thêm khoảng 3% lạm phát thì tăng trưởng danh nghĩa vào khoảng 13%. Để đạt được mức này, thông thường tăng trưởng tín dụng phải vượt qua tăng trưởng của GDP danh nghĩa khoảng 3 điểm %. Mức này là khá an toàn, nên du di tôi lấy 2 điểm phần trăm, thì tăng trưởng tín dụng đâu đấy cần đạt khoảng 15%/năm, từ nay đến 2030", ông Tú Anh lý giải.
TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Nghiên cứu Chính sách Trường Đại học VinUni (trái) và chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Cường (phải) tại Diễn đàn đầu tư Việt Nam (VIF) 2026. Ảnh: BTC
Nếu hiệu quả sử dụng vốn cao thì vay ngân hàng bằng vốn ngắn hạn vẫn hợp lý
Đánh giá sâu hơn về tỷ lệ tín dụng của Việt Nam/GDP khoảng 134%, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Cường nhận định đây là một chỉ số quan trọng để đo sức khỏe hệ thống ngân hàng, nhưng không phải là chỉ số duy nhất. Điều đáng chú ý là tín dụng được sử dụng ra sao và trong khoảng thời gian nào.
Về việc sử dụng tín dụng, ông Cường cho rằng tín dụng chảy vào đâu là vấn đề dễ thấy, bởi cơ cấu nền kinh tế hiện nay rất đơn giản, cả về đối tượng tham gia lẫn ngành nghề, chỉ xoay quanh vài lĩnh vực như: Bất động sản, ngân hàng, chứng khoán.
Còn về thời gian sử dụng tín dụng, vị chuyên gia độc lập nhấn mạnh vấn đề cốt lõi là hiệu quả sử dụng vốn. "Ví dụ, chúng ta thường nói đến vốn ngắn hạn và cho vay dài hạn, nhưng nếu một dự án chỉ kéo dài 2 – 3 năm thì vốn ngắn hạn vẫn có thể đáp ứng. Ở Trung Quốc, tiêu chuẩn xây dựng hạ tầng của họ chỉ 2 – 3 năm là hoàn thành một sân bay, chậm nhất là 3 năm. Vì vậy, trong vòng 15 năm họ hoàn thiện toàn bộ hệ thống đường sắt cao tốc. Khi tốc độ thực hiện nhanh như vậy, vay ngân hàng bằng vốn ngắn hạn vẫn hợp lý".
Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn cũng là trăn trở của Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng. Trước Quốc hội, bà Hồng từng nhấn mạnh rằng để phục vụ mục tiêu tăng trưởng hai con số, cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt khi nền kinh tế phụ thuộc vào vốn đầu tư lớn nhưng hiệu quả chưa cao, phản ánh chỉ số ICOR của Việt Nam cao hơn nhiều nước trên thế giới và khu vực
Đồng tình với TS. Nguyễn Minh Cường, ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam nhận định nếu với các dự án hạ tầng ngắn hạn như xây dựng tuyến đường, nếu thời gian thi công chỉ 1–3 năm thì ngân hàng hoàn toàn có thể cân đối nguồn vốn để tài trợ.
"Tôi muốn nhấn mạnh ngân hàng sẽ tiếp tục là kênh dẫn vốn cực kỳ quan trọng cho nền kinh tế, và trong giai đoạn tới, vai trò này còn lớn hơn nữa", ông Thành nói.
Kỳ vọng các ngân hàng tư nhân tăng trưởng bứt phá trong 5 năm tới
Nhìn lại giai đoạn từ năm 2013 đến trước năm 2022, ông Quản Trọng Thành chỉ ra rằng trong khoảng gần 1 thập kỷ đó, tín dụng tăng mạnh chủ yếu đến từ cho vay bán lẻ, cho vay doanh nghiệp/GDP chiếm tỷ trọng không quá lớn. Tuy vậy, sau biến cố vĩ mô 2022 thì từ năm 2024 đến nay, cho vay doanh nghiệp đang dần trở thành động lực chính của tăng trưởng tín dụng, và đó là hướng đi đúng. Nhất là khi tỷ lệ cho vay doanh nghiệp trên GDP dưới 80%, ở mức lành mạnh, cho thấy dư địa cho vay doanh nghiệp vẫn còn rất lớn.
Ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam. Ảnh: BTC
Theo ông Thành, hướng đi tiếp theo là mở rộng cho vay sản xuất. Bởi khi nước ta bước vào giai đoạn tăng trưởng mạnh, hướng tới mục tiêu trên 10% GDP và lấy doanh nghiệp tư nhân làm chủ lực; thì cho vay sản xuất sẽ là nơi mở rộng quy mô. Tuy vậy, đây sẽ là câu chuyện dài hạn, cần 5 đến 10 năm để chuyển dịch dần.
Còn trong ngắn hạn, động lực cho vay sẽ đến từ mảng hạ tầng và năng lượng. Bởi trong 5 năm tới, theo kế hoạch tăng trưởng GDP hai con số cũng như tính toán của Bộ Tài chính, tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực này cần khoảng 1.400 tỷ USD, tức bình quân mỗi năm khoảng 280 tỷ USD. Trong đó, nguồn vốn FDI chỉ chiếm 24–30 tỷ USD, còn lại hơn 250 tỷ USD phải đến từ khu vực trong nước – bao gồm Chính phủ và doanh nghiệp tư nhân. Khi doanh nghiệp tư nhân tham gia, ngân hàng cũng sẵn sàng tài trợ.
Ông Quản Trọng Thành nhìn nhận bên cạnh vai trò của nhóm ngân hàng gốc quốc doanh, các ngân hàng tư nhân sẽ có tốc độ tăng trưởng vượt trội trong giai đoạn 5 năm tới.
Tương tự, ông Nguyễn Tú Anh cho rằng việc quy mô tín dụng có thể tăng gấp đôi trong 5 năm tới sẽ kéo theo quy mô tài sản của ngân hàng, vốn chủ sở hữu và các yếu tố liên quan khác tăng tương ứng.
"Có thể thấy doanh nghiệp tư nhân đang là lực lượng tiên phong, thì đi cùng với họ chắc chắn sẽ là các ngân hàng tư nhân", ông Quản Trọng Thành, Giám đốc Khối Phân tích Maybank Securities Vietnam.