Đối mặt rủi ro ngắn hạn, ngành thép chỉ khởi sắc từ năm 2024?

Thùy Dương 15:16 | 20/03/2023 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh đang trên đà tăng trong tháng 2 vừa qua, xuất khẩu thép vẫn đối mặt với một số rủi ro trong ngắn hạn. Các chuyên gia đưa dự phóng sáng sủa cho 2024 sau khi toàn ngành vượt qua được cơn bão thách thức trong năm nay.

Hoạt động sản xuất kinh doanh dần phục hồi

Theo báo cáo từ Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) mới đây (14/3), tình hình sản xuất và bán hàng các sản phẩm thép tháng 2/2023 bước đầu ghi nhận khả quan.

Cụ thể, sản xuất thép thành phẩm đạt 2,35 triệu tấn, tăng 21,91% so với tháng 1 nhưng giảm 8,9% so với cùng kỳ 2022. Bán hàng thép các loại đạt 2,08 triệu tấn, tăng 18,13% so với tháng trước nhưng giảm 19% so với cùng kỳ. 

 Ảnh: VSA.

Tính chung 2 tháng đầu năm 2023, sản xuất thép thành phẩm đạt 4,285 triệu tấn, giảm 16,3% so với cùng kỳ năm 2022. Bán hàng thép thành phẩm đạt 3,851 triệu tấn, giảm 23,2% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó xuất khẩu đạt 1 triệu tấn, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Ảnh: VSA.

Theo báo cáo mới đây của CTCK Mirae Asset (MAS), với đặc tính sản lượng thép bán ra phụ thuộc lớn vào thị trường bất động sản nội địa, các chuyên gia cho rằng việc ngành bất động sản trầm lắng trong năm 2023, sẽ kéo theo nhu cầu thép trong nước khó có sự tăng trưởng. Trong năm nay, giải ngân đầu tư công luôn nhận được nhiều kỳ vọng sẽ bù đắp một phần sự suy giảm của thị trường bất động sản.

Ngân sách dành cho đầu tư công trong năm 2023 tăng cao nhất trong lịch sử, ước chi 704 nghìn tỷ, với tỷ lệ giải ngân mục tiêu từ chính phủ là 95%. Nhóm phân tích dự phóng sản lượng thép nội địa trong năm 2023 giảm 10,5% so với cùng kỳ (svck) về mức 17,89 triệu tấn, trước khi hồi phục về mức sản lượng 19,3 triệu tấn, tương đương tăng 8% svck vào năm 2024.

Theo đó, MAS dự phóng sản lượng thép toàn cầu năm 2023 chỉ đạt 1,78 tỷ tấn, giảm 5% cùng kỳ trước khi hồi phục nhẹ lên mức 1,86 tỷ tấn, tương đương tăng 4% svck ở năm 2024. 

Sản lượng xuất khẩu thép của Việt Nam dự kiến giảm về mức 5,07 triệu tấn, giảm 16% svck trong 2023 và sẽ tăng 10% lên 5,512 triệu tấn trong năm 2024.

Ảnh: Mirae Asset.

Nhiều rủi ro tiềm ẩn khiến toàn ngành chưa thể bứt phá

Thống kê từ VSA, tháng 1 vừa qua, nhập khẩu thép thành phẩm các loại về Việt Nam khoảng 592 nghìn tấn với trị giá hơn 525 triệu USD, giảm lần lượt 37,39% về lượng và 35,15% về giá trị so với tháng 12/2022 và giảm lần lượt 41,83% về lượng, 51% về giá trị so với cùng kỳ 2022.

 

Về tình hình xuất khẩu, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 672 nghìn tấn thép trong tháng 1, giảm 18,24% so với tháng 12/2022 và giảm 17,53% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị xuất khẩu đạt gần 457 triệu USD giảm 21,75% so với tháng trước và giảm 49,02% so với cùng kỳ năm 2022. 

 

Theo phân tích của MAS, trong năm qua, ngành thép Việt Nam tương đối thuận lợi về mặt chính sách khi hầu hết các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam là ASEAN, Châu Âu, Trung Quốc và Mỹ không có các cuộc điều tra thuế chống bán phá giá lớn. Ngoài ra, điểm sáng là thị trường Mexico (chiếm dưới 1% giá trị xuất khẩu) vừa có quyết định giảm thuế chống bán phá giá đối với thép mạ nhập khẩu từ Việt Nam, từ 0% - 12,34% xuống mức 0% - 10,84%.

Bên cạnh đó, chính sách vẫn tiềm ẩn một số rủi ro. Thứ nhất, rủi ro về biến động giá nguyên vật liệu. Ngành thép và tôn mạ có rủi ro lớn do chi phí nguyên liệu chiếm 65 - 75% giá thành sản xuất. Đặc biệt trong ngành tôn mạ, giá HRC chiếm hơn 80% chi phí nguyên liệu đầu vào, khiến lợi nhuận của cả ngành biến động rất lớn theo HRC.

Thứ hai, rủi ro về thị trường bất động sản đóng băng. Trong năm 2023, các dự án bất động sản lớn đều triển khai rất hạn chế, qua đó ngành thép cũng trực tiếp bị ảnh hưởng sản lượng.

Thứ ba, rủi ro về các nhà sản xuất Trung Quốc tăng cường xuất khẩu. Từ tháng 1 vừa qua, Trung Quốc đã mở cửa hoàn toàn. Nhóm phân tích cho rằng các nhà sản xuất thép Trung Quốc sẽ tích cực gia tăng tìm kiếm đơn hàng xuất khẩu để bù đắp cho sự suy giảm sản lượng nội địa khi chính thị trường bất động sản Trung Quốc cũng trong tình trạng đóng băng từ 2021 đến nay.

Cuối cùng là rủi ro về chính sách. Nghị định 101/2021/NĐ-CP đã thông qua chủ trương tăng thuế xuất khẩu mặt hàng phôi thép nếu trong trường hợp giá thép tăng quá cao. Tuy nhiên, nghị định này sẽ bảo đảm sự phát triển bền vững của ngành thép trong dài hạn nhờ góp phần ổn định nguồn cung phôi thép, hạn chế việc xuất khẩu phôi thép để giữ lại cho sản xuất trong nước.