Tiêu thụ thép nội địa có thể tăng hai con số trong 5 năm tiếp theo?

H.Mĩ 18:41 | 24/12/2025 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam với kịch bản xuất khẩu tiếp tục suy giảm và nhập khẩu được kiểm soát nhưng không giảm mạnh bằng xuất khẩu, sản lượng của các doanh nghiệp thép vẫn có thể tăng trưởng trong năm 2026.

Tiêu thụ thép tăng trưởng

Theo số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), Việt Nam tiêu thụ được gần 2,6 triệu tấn thép, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, thị trường nội địa vẫn đóng vai trò là trụ đỡ chính cho đà tăng trưởng này trong bối cảnh xuất khẩu giảm tới 30%.

Tính chung 11 tháng qua, các doanh nghiệp bán được 28,5 triệu tấn thép thành phẩm, tăng 6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, 86% lượng thép được tiêu thụ ở thị trường nội địa.

Còn ở kênh xuất, doanh số bán hàng giảm tới 40% xuống khoảng 4,7 triệu tấn. Do đó, tỷ trọng của kênh này trong cơ cấu bán hàng chỉ còn khoảng 14% (cùng ngoái tỷ trọng này 23%). VSA cho biết xuất khẩu gặp nhiều khó khăn về các hàng rào thuế quan, kỹ thuật cùng các biện pháp phòng vệ thương mại, các hình thức thuế mới…

Nguồn: VSA (H.Mĩ tổng hợp)

VSA nhận định thị trường thép 11 tháng năm 2025 nhận tín hiệu tích cực từ nhu cầu tiêu thụ thép trong nước. Những tháng gần đây, dù ảnh hưởng bởi mùa mưa nhưng nhu cầu tiêu thụ thép ở các phân khúc dự án, dân dụng nội địa khá tốt, đặc biệt là nhu cầu thép để tái thiết xây dựng lại nhà cửa, công bình bị ảnh hưởng bởi các cơn bão.

Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh đầu tư công cũng trở thành động lực lớn cho hoạt động tiêu thụ thép trong năm nay. Tỷ lệ giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công 11 tháng ước đạt 60,6% kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ năm 2024 (58,2%), về số tuyệt đối cao hơn khoảng 155.700 tỷ đồng.

Nhìn vào cơ cấu tiêu thụ thép thành phẩm, đà tăng chủ yếu tập trung vào thép xây dựng (9%), thép cuộn cán nóng (23%) và ống thép (6,6%). Đây là những sản phẩm vốn ít phụ thuộc vào xuất khẩu, do đó được hưởng lợi từ sự phục hồi từ thị trường nội địa.

Nguồn: VSA (H.Mĩ tổng hợp)

Sản lượng và bán hàng thép HRC liên tục tăng mạnh qua các tháng từ đầu năm đến nay. Điều này diễn ra trong bối cảnh Hoà Phát bắt đầu vận hành dự án Dung Quất 2 từ đầu năm nay.

Với quy mô 280 ha, Khu liên hợp sản xuất gang thép Hòa Phát Dung Quất 2 có tổng vốn đầu tư 85.000 tỷ đồng, công suất thiết kế 5,6 triệu tấn HRC. Như vậy, nếu vận hành tối đa công suất, Hoà Phát có thể sản xuất được khoảng 9 triệu tấn thép HRC/năm.

Trong báo cáo công bố hồi cuối tháng 10, Hoà Phát cho biết tính đến cuối quý III năm nay, phân kỳ 1 của Dung Quất 2 đã hoàn tất chạy thử và chính thức đi vào hoạt động.

Nhờ sự đóng góp của dự án này, trong 9 tháng đầu năm tổng sản lượng tiêu thụ HRC đạt 3,4 triệu tấn, tăng 51% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó riêng quý III đạt 1,26 triệu tấn, tăng 71% so với quý III/2024, chiếm 63% tổng lượng bán hàng thép HRC của cả nước.

Ngoài ra, động tiêu thụ thép trong năm 2025 nói chung được trợ lực bởi loạt biện pháp phòng vệ thương mại của Bộ Công Thương, đặc biệt là đối với mặt hàng thép HRC và tôn mạ nhập khẩu từ Trung Quốc.

Triển vọng thị trường thép

Nhu cầu thép ở thị trường nội địa được đánh giá tiếp tục tích cực trong năm sau. Trao đổi với chúng tôi, ông Phạm Công Thảo – Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Thép Việt Nam (VNSteel), Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), nhận định câu chuyện trọng tâm của doanh nghiệp thép nói riêng và ngành thép Việt Nam nói chung trong năm 2026 vẫn sẽ bám sát mục tiêu tăng trưởng kinh tế  của Việt Nam.

Theo ông Thảo, Đảng và Chính phủ đã đặt mục tiêu tăng trưởng rất cao cho năm 2026 cũng như giai đoạn 5 năm tiếp theo, hướng tới mức tăng trưởng hai con số. Với kịch bản này, theo thông lệ, nhu cầu thép cũng thường tăng trưởng ở mức hai con số.

Nhìn rộng hơn về bức tranh tổng thể, ông Thảo đánh giá ngành thép Việt Nam, nếu xét trong một chu kỳ lớn, vẫn đang nằm trong chu kỳ tăng trưởng.

Kể từ khi nền kinh tế mở cửa, ngành thép liên tục phát triển. Hiện nay, sản lượng tiêu thụ thép của Việt Nam đạt khoảng 24–25 triệu tấn mỗi năm, tương ứng mức tiêu thụ bình quân khoảng 240–250 kg thép trên đầu người.

So sánh với các quốc gia phát triển, mức tiêu thụ thép bình quân đầu người thường dao động trong khoảng 400–500 kg. Đặc biệt, tại một số nền kinh tế như Hàn Quốc hoặc Đài Loan, con số này có thể lên tới gần 1.000 kg/người/năm.

"Điều này cho thấy dư địa tăng trưởng của ngành thép Việt Nam vẫn còn rất lớn", ông Thảo nhận định.

Về triển vọng năm 2026, ông Thảo dự báo ngành thép sẽ tiếp tục ghi nhận tăng trưởng. Nếu xét về nhu cầu, nhu cầu nội địa nhiều khả năng sẽ tăng trưởng tốt. Trong khi đó, sản xuất của các doanh nghiệp thép chịu tác động đáng kể từ các yếu tố xuất nhập khẩu.

Bước sang năm 2026, diễn biến nhập khẩu sẽ phụ thuộc lớn vào hiệu quả thực thi các chính sách phòng vệ thương mại và biện pháp tự vệ của Việt Nam. Nếu các chính sách này được triển khai hiệu quả, các doanh nghiệp trong nước sẽ có thêm điều kiện để phát huy công suất.

Theo ông Thảo, với kịch bản xuất khẩu tiếp tục suy giảm và nhập khẩu được kiểm soát nhưng không giảm mạnh bằng xuất khẩu, sản lượng của các doanh nghiệp thép vẫn có thể tăng trưởng trong năm 2026. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này sẽ không cao bằng tốc độ tăng của nhu cầu nội địa.

Bà Võ Thị Ngọc Hân, CFA – Giám đốc Nghiên cứu Cấp cao, Ngành Sản xuất Công nghiệp - công nghệ, CTCP Chứng khoán TP.HCM (HSC) nhấn mạnh rằng sự hồi phục của thị trường bất động sản dân dụng sẽ là một động lực quan trọng đối với nhu cầu thép, đặc biệt là thép xây dựng tại thị trường Việt Nam trong năm 2026.

"Theo quan sát hiện nay, hàng loạt dự án bất động sản quy mô lớn đang được triển khai trên cả nước, với nguồn cung mới dự kiến được đưa ra thị trường trong năm 2026. Quá trình xây dựng các dự án này sẽ bắt đầu từ cuối năm 2025 và đầu năm 2026, qua đó tạo nền tảng tích cực cho nhu cầu tiêu thụ thép tại thị trường nội địa", bà Hân nói.

Bà Hân cũng nhấn mạnh vai trò của các biện pháp bảo hộ thương mại. Hiện nay, vẫn đang diễn ra một số cuộc điều tra liên quan đến việc áp thuế chống bán phá giá. Nếu các kết luận này được đưa ra sớm trong năm 2026, việc ngăn chặn thép HRC Trung Quốc  tràn vào thị trường Việt Nam có thể được giải quyết một cách triệt để.

Trong báo cáo mới đây, chứng khoán MBS dự báo trong giai đoạn 2025 - 2026, tiêu thụ nội địa toàn ngành thép tiếp tục tích cực khi ghi nhận tăng trưởng 7% so với cùng kỳ đạt mức 25 triệu tấn. Trong đó, tiêu thụ thép xây dựng tăng 8% so với cùng kỳ đạt mức 13 triệu tấn.

Động lực chính đến từ nhu cầu thép cho ngành xây lắp diễn ra tích cực trong bối cảnh nguồn cung bất động sản cải thiện và tăng cường giải ngân đầu tư công.

Bên cạnh đó, sản lượng HRC có thể tăng mạnh 20% nhờ nhà máy Dung Quất 2 đi vào vận hành đóng góp khoảng 5 triệu tấn HRC cho thị trường và thép Việt Nam gia tăng thị phần trong bối cảnh thép nhập khẩu bị áp thuế.

Sản lượng duy trì tăng trưởng có thể tác động tích cực tới giá thép trong giai đoạn 2025 - 2026, bên cạnh áp lực từ thép nhập khẩu suy giảm trong bối cảnh bị áp thuế.

Xuất khẩu có thể chịu áp lực giảm trong năm 2026

Trong bối cảnh hiện nay, xuất khẩu  thép được đánh giá là sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn. Các rào cản như CBAM cùng với xu hướng bảo hộ thương mại ngày càng gia tăng trên thị trường thế giới, vì vậy, nhiều khả năng xuất khẩu thép của Việt Nam sẽ tiếp tục suy giảm trong năm 2026.

Theo ông Thảo, bên cạnh mục tiêu bảo vệ môi trường, CBAM trên thực tế cũng là một công cụ nhằm bảo vệ thị trường nội địa của EU. Cơ chế này dự kiến sẽ được áp dụng chính thức từ năm 2026 và có lộ trình chuyển đổi kéo dài đến năm 2034. Theo đó, mỗi năm EU sẽ dần cắt giảm tỷ lệ miễn phí, dựa trên các tiêu chuẩn phát thải benchmark của khu vực này.

Chẳng hạn, trong năm 2026, tỷ lệ miễn thuế theo CBAM dựa trên benchmark của EU là 97,5%. Bước sang năm 2027 tỷ lệ này giảm xuống còn 95%, 2028 là 90%, 2029 là 77,5% và đến năm 2034 là 0%.

Tuy nhiên, theo tính toán của một số tổ chức quốc tế, đối với Việt Nam, nếu áp dụng mức phát thải mặc định mà EU đang xây dựng, các sản phẩm thép xuất khẩu như thép cán nguội, cán nóng hay tôn mạ có thể phải chịu chi phí carbon khoảng 70–80 USD/tấn.

Liên quan đến hoạt động xuất khẩu, ông Thảo cho biết xuất khẩu thép trong năm nay đã sụt giảm rất mạnh, ước tính giảm khoảng 25% so với giai đoạn trước. Đối với thị trường EU, ông Thảo nhận định rằng ngay cả khi chưa tính đến cơ chế CBAM, xuất khẩu thép của Việt Nam sang khu vực này cũng đã giảm rất sâu.

Dự kiến trong năm nay, xuất khẩu sang EU giảm khoảng 38% so với năm trước. Tỷ trọng xuất khẩu sang EU từng chiếm khoảng 26%, nhưng hiện nay đã giảm xuống còn khoảng 23% trong tổng xuất khẩu thép.

Trong năm 2025, MBS dự báo, sản lượng xuất khẩu có thể giảm 35% so với cùng kỳ do là năm đầu tiên bị áp thuế và nhu cầu yếu tại các thị trường xuất khẩu (EU và Mỹ).

Sang năm 2026, do nhu cầu tiêu thụ tại EU, Mỹ chưa có tín hiệu phục hồi rõ ràng và tác động tiêu cực của thuế quan, đơn vị phân tích này dự báo sản lượng xuất khẩu có thể đi ngang và đạt mức 5,4 triệu tấn.

Giá xuất khẩu trong năm 2025 dự báo giảm khoảng 7% trong bối cảnh áp lực giảm giá từ EU và Mỹ hiện hữu. Sang năm 2026, theo dự báo từ WSA, giá thép tại Mỹ và EU có khả năng hồi phục nhẹ nhờ môi trường lãi suất thấp, MBS ước tính giá xuất khẩu có thể duy trì ổn định so với cùng kỳ.