Sản xuất công nghiệp tháng 8 tăng 2,9%, duy trì tín hiệu tích cực sau nửa năm khó khăn
Số liệu do Tổng cục Thống kê công bố ngày 29/8 cho thấy tốc độ tăng chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) trong tháng 8 ước tính tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 2,6% so với cùng kỳ (svck) năm trước. Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới những tháng đầu năm 2023 gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến kết quả sản xuất công nghiệp trong nước. Tính chung 8 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tính giảm 0,4% svck năm trước.
Trong tháng 8 svck năm trước, IIP ngành chế biến, chế tạo tăng 3,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,8%; riêng ngành khai khoáng giảm 6,2%.
8 tháng đầu năm, IIP ngành chế biến, chế tạo giảm 0,6% (cùng kỳ năm 2022 tăng 10,1%), làm giảm 0,3 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 1,7%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,8%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 2,5%, làm giảm 0,4 điểm phần trăm.
Xét về địa phương, trong 8 tháng 2023, cả nước có 49 địa phương báo cáo IIP tăng bên cạnh 14 địa phương ghi nhận giảm svck năm trước.
Theo đó, một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao. Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện giảm.
Cụ thể, Trà Vinh dẫn đầu về tốc độ tăng IIP cao nhất cả nước (tăng 25,5%), tiếp sau đó là các tỉnh thành: Bắc Giang (tăng 15,9%), Phú Thọ (tăng 15,6%), Thái Bình (tăng 14,3%) và Nam Định (tăng 13,6%).
Thứ tự xếp hạng các tỉnh thành hoàn toàn tương đồng so với báo cáo thống kê 6 tháng đầu năm. Như vậy, cả 5 tỉnh thành có nhiều khu công nghiệp nhất là Đồng Nai, Bình Dương, TP HCM, Long An và Bắc Ninh vẫn chưa thể góp mặt trong top 5 địa phương dẫn đầu về tăng trưởng sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm nay.
Ở chiều ngược lại, 2 địa phương là Quảng Nam và Lai Châu ghi nhận mức tăng trưởng IIP âm mạnh nhất so với cùng kỳ năm trước. Theo Tổng cục Thống kê, nguyên nhân IIP tăng trưởng âm của Quảng Nam phần lớn đến từ mức giảm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (giảm 32,2%), Sơn La với mức giảm 34,7% về chỉ số sản xuất của ngành sản xuất và phân phối điện.
Xét về ngành công nghiệp trọng điểm, 8 tháng đầu năm, sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế tiếp tục dẫn đầu trong số ngành công nghiệp cấp II có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước (tăng 9,9%), tuy nhiên, mức tăng này đang thấp hơn mức 12,2% của 7 tháng đầu năm và 13,2% hồi nửa đầu năm nay. Sản xuất thuốc lá tăng vươn lên thứ hai với mức tăng 8,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng 8,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 7%; khai thác quặng kim loại 6,5%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 5,6%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,4%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của 1 số ngành giảm so với cùng kỳ năm trước như sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 3,9%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 4,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,4%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy cùng giảm 4,8%; sản xuất trang phục giảm 5,1%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 6%; sản xuất xe có động cơ giảm 6,5%.
Xét về cơ cấu sản phẩm trong giai đoạn này, đường kính dẫn đầu top sản phẩm công nghiệp chủ lực có mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước (tăng 34,9%); phân hỗn hợp N.P.K tăng 14,2%; xăng, dầu tăng 10,1%; ti vi tăng 10%; sơn hóa học tăng 9,5%; thuốc lá điếu và vải dệt từ sợi nhân tạo cùng tăng 8,6%; thép cán tăng 6,5%.
Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước như ô tô giảm 20,4%; điện thoại di động giảm 17,7%; thép thanh, thép góc giảm 15,5%; xe máy giảm 7,4%; quần áo mặc thường giảm 5,8%; xi măng giảm 5,6%; linh kiện điện thoại giảm 4,7%.
Về lao động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/8/2023 tăng 0,9% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,9% so với cùng thời điểm năm trước. Theo cơ cấu ngành, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai khoáng không đổi so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 0,1% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 1% và giảm 3,1%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí không đổi so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 1,4% so với cùng thời điểm năm trước; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1% và tăng 1,4%.