Xuất khẩu rau quả sang Trung Quốc năm 2024 dự kiến chiếm 70% tổng kim ngạch cả nước

Trang Mai 10:31 | 13/11/2024 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Trung Quốc có dân số đông 1,4 tỷ người, là nền kinh tế lớn thứ hai của thế giới nên nhu cầu tiêu thụ rau quả ngày càng rất lớn, nhất là các loại trái cây vùng nhiệt đới mà Việt Nam có lợi thế sản xuất với số lượng lớn, chất lượng tốt.

Việt Nam còn nhiều tiềm năng cho ngành rau củ quả xuất chính ngạch sang Trung Quốc

Chia sẻ tại hội thảo Xúc tiến thương mại sang thị trường Trung Quốc mới đây, ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết, hiện tại, Việt Nam đang xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc 11 loại trái cây đặc sản như sầu riêng, mít, thanh long, chuối, xoài, nhãn, vải, dưa hấu, chôm chôm, măng cụt, chanh dây, ngoài ra có thêm khoai lang, cây xạ đen.

“Kim ngạch rau quả xuất khẩu của Việt Nam năm 2023 đạt 5,6 tỷ USD, riêng Trung Quốc là 3,63 tỷ USD chiếm gần 65% tổng kim ngạch xuất khẩu trái cây của Việt Nam. Năm 2024 dự kiến kim ngạch rau quả xuất khẩu của Việt Nam sẽ khoảng 7,5 tỷ USD, riêng Trung Quốc sẽ đạt trên 5 tỷ USD, chiếm khoảng 70% khối lượng”, ông Nguyên dự báo. 

 Sầu riêng Việt Nam rất được ưa chuộng tại thị trường Trung Quốc. Ảnh: TTXVN

Cũng theo vị này, người tiêu dùng Trung Quốc ngày càng quan tâm đến các sản phẩm nông sản rau quả sạch, an toàn, có nguồn gốc tự nhiên, giá thành hợp lý, đây là điểm mạnh của rau quả Việt Nam. Cùng đó, các hiệp định thương mại (FTA) giữa Việt Nam và Trung Quốc giúp giảm thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho rau quả Việt xuất khẩu.

Hơn nữa, nhiều loại trái cây Việt Nam như sầu riêng, thanh long, chuối, mít, xoài, chanh dây, vải… được người tiêu dùng Trung Quốc biết đến và ưa chuộng nhờ hương vị thơm ngon và chất lượng không thua kém các nước xung quanh.

Đáng lưu ý, các cửa khẩu ở biên giới Việt Nam nằm rất gần các chợ đầu mối bên Trung Quốc (không nước nào có được) đã rút ngắn rất nhiều thời gian vận chuyển hàng rau quả từ nơi sản xuất đến chợ tiêu thụ phía Trung Quốc, giảm đáng kể chi phí logistics so các nước khác. Kể cả các cảng biển ở Trung Quốc cũng rất gần các cảng của Việt Nam giúp tăng thêm tính cạnh tranh cho ngành hàng rau quả Việt Nam.

Tuy nhiên, thị trường này cũng có rất nhiều đối thủ cạnh tranh từ các nước khác như Thái Lan, Malaysia, Philippines, Campuchia, Australia… và một số nước ở Nam Mỹ như Chi Lê, Peru, Ecuador.. nhất là hàng rau quả sản xuất trong nước của Trung Quốc như chuối, thanh long, vải, nhãn, bưởi, gừng, tỏi….Các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của Trung Quốc ngày càng nghiêm ngặt, thay đổi, đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải cập nhật và đáp ứng được yêu cầu này.

Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm của Trung Quốc ngày càng nghiêm ngặt, thay đổi, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải cập nhật và đáp ứng được các yêu cầu này.

Quy định về vệ sinh thực vật và kiểm dịch động thực vật của Trung Quốc khá phức tạp mất thời gian. Hàng rau quả xuất khẩu của Việt Nam phải có mã số vùng trồng do Hải quan Trung Quốc (GACC) kiểm tra cấp. Các cơ sở chế biến, đóng gói cũng phải đăng ký xin mã số của Hải quan Trung Quốc cấp sau khi kiểm tra nghiêm ngặt.

Hơn nữa, việc tìm kiếm khách hàng và xây dựng kênh phân phối tại Trung Quốc cũng là một thách thức không nhỏ bởi đa số hàng rau quả Việt Nam được bán cho thương lái nhỏ lẻ của Trung Quốc tập trung nhiều ở biên giới phía Bắc Việt Nam. Đặc biệt, doanh nghiệp Việt chưa thâm nhập sâu vào thị trường sâu trong nội địa và các tỉnh, khu vực phía Bắc Trung Quốc.

Để tận dụng tối đa tiềm năng và vượt qua các thách thức, ông Đặng Phúc Nguyên cho rằng doanh nghiệp cần nắm bắt thời vụ sản xuất hàng rau quả nội địa của Trung Quốc để có biện pháp đối phó hoặc điều chỉnh lịch sản xuất xuất khẩu hàng của Việt Nam, tránh bị cạnh tranh như thanh long, chuối, xoài, nhãn, vải, dưa hấu….

Cùng đó, đầu tư vào công nghệ sản xuất, chế biến, áp dụng kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Tạo dựng hình ảnh tốt cho sản phẩm rau quả Việt Nam trên thị trường Trung Quốc nhằm chiếm trọn niềm tin người tiêu dùng vào chất lượng sản phẩm rau quả Việt Nam.

Không chỉ tập trung vào một vài loại trái cây, ông Đặng Phúc Nguyên cho rằng, cần đa dạng hóa sản phẩm kể cả sản phẩm chế biến sâu để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng về mẫu mã và xuất xứ. Do đó, Chính phủ cần đàm phán và ký kết các nghị định thư với Trung Quốc giúp doanh nghiệp mở rộng thêm mặt hàng xuất khẩu.

Mặt khác, phối hợp với Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc để không chỉ tập trung vào chợ đầu mối mà có thể mở rộng thêm đến siêu thị lớn, thị trường ngách sâu trong nội địa hơn. Chú ý khai thác các tỉnh, khu vực địa phương phía Bắc Trung Quốc như Sơn Đông, Bắc kinh, Thượng Hải…Kết hợp với các doanh nghiệp Trung Quốc để cùng nhau xây dựng chuỗi cung ứng và phân phối các sản phẩm rau quả Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc trên tinh thần đôi bên cùng có lợi. 

Về phía doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Thành Thực, Tổng giám đốc CTCP Công nghệ phần mềm AutoAgri cho rằng, Trung quốc không chỉ là thị trường tiêu thụ lớn mà cũng là nơi sản xuất cực lớn và giá rẻ, họ xuất khẩu đi khắp thế giới. Tuy nhiên với lợi thế của Việt Nam có nhiều rau quả nhiệt đới (sầu riêng, mít, dừa, na, chuối ...) mà người Trung quốc rất ưa chuộng, nguồn cung tại chỗ không đủ đáp ứng nhu cầu.

Người Trung quốc có văn hóa tặng quà rất cầu kỳ và sang trọng, nguyên liệu bánh từ các rau củ quả Việt Nam cũng rất được yêu thích như  bánh sầu riêng, bánh đậu xanh, các loại bánh từ tinh bột sắn, tinh bột gạo... Vì thế chúng ta cũng cần tìm hiểu tập quán, thói quen tiêu dùng, tính thời vụ... để đảm bảo nguồn cung được giá. Ví dụ như các dịp lễ lớn tết âm lịch, tết đoan ngọ, tết trung thu... các nhà buôn sẽ đắt hàng trước hàng tháng, cận ngày thì hàng bán lẻ chứ bán buôn không kịp nữa, vì thế hàng có thể sập giá trong vài ngày…

Bên cạnh việc tiêu thụ rau củ quả tươi, Trung Quốc cũng là thị trường tiêu thụ lớn thực phẩm chế biến, các thương nhân tại đây cũng nắm giữ hệ thống phân phối thực phẩm lớn nhất, đoàn kết nhất trên thế giới. 

“Nếu chúng ta có cơ chế hợp tác, có những chính sách ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp đầu tư vào liên kết sản xuất, thu mua và chế biến rau củ quả tại Việt Nam, giảm chi phí bảo quản, giảm thất thoát hư hao và chống lãng phí thực phẩm. Tôi tin chắc Việt Nam còn nhiều tiềm năng cho ngành rau củ quả xuất chính ngạch sang Trung Quốc”, bà Thực cho hay. 

Tránh bị mất thương hiệu tại thị trường Trung Quốc

Lưu ý doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, ông Nguyễn Trung Kiên, chuyên viên Vụ Thị trường châu Á- châu Phi (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất, tiêu thụ đến 90% vải thiều và 80% thanh long của Việt Nam. Cùng đó, Trung Quốc cũng là thị trường xuất khẩu sắn và sản phẩm sắn lớn nhất khi chiếm tới 91% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.

Ngoài ra, đây cũng là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam tiêu thụ tới 78,5% tổng giá trị xuất khẩu. Đặc biệt, Trung Quốc còn là thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn thứ 3 của Việt Nam chỉ sau Hoa Kỳ và Nhật Bản. Do vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, theo ông Nguyễn Trung Kiên, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng thương hiệu, bảo vệ thương hiệu (tránh bị mất thương hiệu tại thị trường Trung Quốc).

Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải tuân thủ quy định của Trung Quốc về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm nghiệm - kiểm dịch, bao bì truy xuất nguồn gốc. Mặt khác, xúc tiến tích cực vận tải đường sắt liên vận Việt Nam - Trung Quốc. Hơn nữa, ngoài việc xây dựng đội ngũ nhân viên thông thạo tiếng Trung, có hiểu biết về văn hoá nước này, doanh nghiệp cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm.

Đặc biệt, chú trọng khai thác thị trường doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và doanh nghiệp tới người tiêu dùng (B2C) Trung Quốc thông qua các nền tảng thương mại điện tử.

Ông Nguyễn Trung Kiên cho hay, Bộ Công Thương đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 122/2024/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 14/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới. Cùng đó, để ủng hộ lộ trình chuyển dịch từ tiểu ngạch sang chính ngạch, các địa phương cần thay đổi thói quen tận dụng hình thức trao đổi cư dân biên giới để buôn bán lớn; rủi ro ùn tắc hàng hoá vào các thời vụ cao điểm trong năm nhằm đưa hoạt động trao đổi cư dân biên giới về đúng bản chất.