Luật hóa Nghị quyết 42 sẽ kéo giảm tỷ lệ nợ xấu rõ rệt ngay năm đầu triển khai

Thùy Dung 09:17 | 02/06/2025 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Theo chuyên gia, nợ xấu là vấn đề có tính liên tục, là rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ chứ không phải chỉ xuất hiện trong thời điểm khó khăn. Do vậy, cần thiết phải có một khung pháp lý về xử lý nợ xấu, không nên để cộng dồn, tích tụ tạo nên những nguy cơ, những điểm tắc nghẽn cho kinh tế quốc gia.

Ảnh minh họa.

Chờ luật hóa Nghị quyết 42 về xử lý nợ xấu

Nghị quyết 42/2017/QH14 (Nghị quyết 42) được đánh giá đã trao thêm cho các tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ những quyền liên quan đến xử lý các tài sản đảm bảo, qua đó rút ngắn thời gian xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ), góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng trong nền kinh tế.

Việc luật hóa Nghị quyết 42 từng được đề cập vào năm 2022, thời điểm mà nghị quyết này sắp hết thời hạn thí điểm vào tháng 8 cùng năm. Tuy nhiên sau đó, Quốc hội đã quyết định kéo dài thời gian thực hiện Nghị quyết 42 đến hết năm 2023; đồng thời giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm.

Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN), lũy kế từ ngày 15/8/2017 đến 31/12/2023, trung bình mỗi tháng xử lý được 5.800 tỷ đồng nợ xấu, cao hơn 2,5 lần so với mức bình quân 2.280 tỷ đồng trước khi có Nghị quyết 42. Trong tổng số 443.800 tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết này, tỷ lệ khách hàng tự trả nợ và hình thức xử lý nợ thông qua bán, phát mại TSBĐ đều tăng cao, lần lượt chiếm 36,35% và 20,85%, tương đương 161.300 tỷ đồng và 92.500 tỷ đồng.

Việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực vào ngày 31/12/2023 được đánh giá đã tác động đáng kể đến việc xử lý, thu hồi nợ của các ngân hàng và tổ chức mua bán, xử lý nợ. Theo số liệu của NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành tính đến tháng 1/2025 ở mức 4,3% so với mức khoảng 2% vào cuối năm 2022 và khoảng 4,75% vào cuối tháng 7/2024. NHNN nhận định tại thời điểm đầu năm nay, nợ xấu nội bảng tại các tổ chức tín dụng tuy có giảm nhẹ so với năm ngoái nhưng vẫn ở mức cao trong suốt thời gian qua, tập trung tại một số ngân hàng yếu kém. 

Còn theo các ngân hàng, việc Nghị quyết 42 hết hiệu lực vào cuối năm 2023 và nhiều quy định về xử lý nợ xấu không được đưa vào Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã khiến việc thu hồi, xử lý nợ xấu của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn, gần 200.000 tỷ đồng là TSBĐ cho các khoản nợ xấu tồn đọng. Con số thực tế có thể còn lớn hơn.

Tại ĐHĐCĐ thường niên diễn ra đầu năm nay, Chủ tịch VIB Đặng Khắc Vỹ nhận định việc không được luật hóa Nghị quyết 42 đã tác động cực lớn đến hoạt động ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng bán lẻ, đồng thời dẫn đến việc thu hồi nợ cá nhân rất vất vả. “Chúng tôi đã kiến nghị rất nhiều để được tháo gỡ, hy vọng kỳ họp Quốc hội tháng 5 tới sẽ thông qua Nghị quyết này. Đây là sự kiện lớn đối với ngành ngân hàng, những khoản nợ cá nhân của VIB sẽ được thu hồi lại ngay, đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận”, ông Vỹ cho hay.

Trong bối cảnh toàn ngành đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cao nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng GDP tối thiểu 8% trong năm nay, diễn biến chất lượng tài sản toàn ngành phức tạp đặt ra bài toán đầy thách thức cho các ngân hàng khi phải cân đối giữa tăng trưởng tín dụng với kiểm soát rủi ro. 

 Ảnh: T.D tổng hợp.

Luật hóa Nghị quyết 42 có thể đưa nợ xấu nội bảng về 3%

Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, Chính phủ đã trình Quốc hội Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng, nhằm luật hóa một số chính sách quan trọng từ Nghị quyết số 42, hướng đến nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng.

Trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng lần này, NHNN đề xuất ba nhóm chính sách với mục tiêu bảo đảm cân bằng giữa quyền lợi hợp pháp của tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ với các quyền hợp pháp của bên bảo đảm tài sản.

Thứ nhất, luật hóa quy định về quyền thu giữ TSBĐ; với nội dung quy định rõ tổ chức tín dụng, tổ chức mua bán, xử lý nợ được quyền thu giữ TSBĐ trong trường hợp tại hợp đồng bảo đảm đã có thỏa thuận về việc này. Đồng thời, việc thu giữ TSBĐ phải tuân thủ các điều kiện, trình tự, thủ tục theo quy định. Trong quá trình thu giữ, các tổ chức tín dụng không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Thứ hai, luật hóa quy định về kê biên TSBĐ của bên phải thi hành án. Theo đó, TSBĐ cho nghĩa vụ trả nợ tại tổ chức tín dụng sẽ không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; trừ trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc trường hợp có sự đồng ý của tổ chức tín dụng.

Thứ ba là luật hóa quy định về hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả TSBĐ là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Theo đó, sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là TSBĐ của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng.

Giải trình trước Quốc hội ngày 29/5 về việc luật hóa các nội dung của Nghị quyết 42, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng nhìn nhận việc đưa các quy định của Nghị quyết 42 vào Luật sẽ tạo cơ sở pháp lý ổn định, lâu dài, giúp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn, đồng thời bảo vệ quyền lợi của tổ chức tín dụng, người gửi tiền và người vay. Theo đại diện NHNN, tiền cho vay của các tổ chức tín dụng chính là tiền gửi của người dân, do đó việc bảo vệ tổ chức tín dụng cũng đồng nghĩa với bảo vệ người gửi tiền.

Các quy định này cũng phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị ngày 5/4/2025 vừa qua về phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm quyền tài sản và thực thi hợp đồng. Trên thực tế, nhiều tổ chức quốc tế cũng khuyến nghị Việt Nam cần có quy định bảo vệ người cho vay để tăng cường an toàn hệ thống tài chính...

"Việc luật hóa Nghị quyết 42 không chỉ giúp các tổ chức tín dụng xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu mà còn khơi thông dòng vốn bị ách tắc trước đây. Khi nợ xấu được xử lý, tổ chức tín dụng sẽ có thêm nguồn lực để luân chuyển vốn, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đồng thời, việc giảm nợ xấu cũng giúp các tổ chức tín dụng giảm áp lực trích lập dự phòng rủi ro, từ đó tạo điều kiện để giảm lãi suất cho vay, mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người vay", Thống đốc NHNN cho hay. 

Về phía các tổ chức tín dụng, theo bà Nguyễn Thị Hồng, Luật cũng đã quy định rõ các điều kiện, quy trình, trình tự và thủ tục công khai trong việc thu giữ TSBĐ để bảo đảm quyền lợi của người vay và tránh lạm dụng. Theo đó, các tổ chức tín dụng phải xây dựng quy trình nội bộ minh bạch, tuân thủ đúng quy định pháp luật khi xử lý tài sản bảo đảm.

VNDirect trong một báo cáo mới đây nhận định dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đang trình Quốc hội khóa XV xem xét tại kỳ họp tháng 5/2025 nếu được thông qua sẽ mang tính ổn định và bền vững hơn nghị quyết trước đây  nhờ 3 yếu tố.

Một là phạm vi áp dụng mở rộng: Luật mới áp dụng cho mọi khoản nợ xấu không giới hạn thời điểm phát sinh, thay vì chỉ giới hạn trước ngày 15/8/2017 như Nghị quyết 42. 

Hai là tăng quyền cho tổ chức tín dụng, khi luật mới trao thêm quyền thu giữ và nhận lại TSBĐ (bổ sung các quy định nhận TSBĐ trong vi phạm hành chính), giúp đẩy nhanh quá trình xử lý nợ.

Ba là việc ưu tiên áp dụng luật trong tranh chấp: nếu các quy định về thu giữ, kê biên và hoàn trả TSBĐ được luật hóa đầy đủ, Luật các tổ chức tín dụng sẽ được ưu tiên áp dụng trong tranh chấp dân sự và hành chính, trừ trường hợp liên quan đến tố tụng hình sự đang diễn ra.

Nhận định về tính cấp thiết của việc Luật hóa Nghị quyết 42, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng ngân hàng BIDV đánh giá Nghị quyết trước đây đã phát huy hiệu quả tốt, giúp nợ xấu giảm rõ rệt. Theo TS. Lực, nợ xấu là vấn đề có tính liên tục, là rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh tiền tệ chứ không phải chỉ xuất hiện trong thời điểm khó khăn. Các ngân hàng nước ngoài thường chấp nhận tỷ lệ rủi ro nợ xấu khoảng 2-3%. Vì vậy, TS. Lực nhận định phải có một khung pháp lý về xử lý nợ xấu, không nên để cộng dồn, tích tụ tạo nên những nguy cơ, những điểm tắc nghẽn cho kinh tế quốc gia.

Đánh giá cụ thể hơn, các chuyên gia từ VNDirect cho rằng việc luật hóa 3 điều khoản trong Nghị quyết 42 sẽ kéo giảm tỷ lệ nợ xấu ngành ngân hàng xuống dưới 3% từ mức tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành 4,3% tập trung tại một số ngân hàng yếu kém và diện kiểm soát đặc biệt tại thời điểm tháng 1/2025.

"Chúng tôi kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu toàn ngành sẽ giảm rõ rệt trong năm đầu triển khai nhờ việc xử lý mạnh các khoản nợ có TSBĐ, dựa trên kinh nghiệm từ giai đoạn 2017–2021 khi Nghị quyết 42 có hiệu lực", báo cáo của VNDirect nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, các chuyên gia kỳ vọng việc luật hóa các quy định tại Nghị quyết 42 cũng sẽ giúp giảm chi phí vốn vay cho doanh nghiệp và người dân – phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ. Theo đó, các quy định rõ ràng và minh bạch sẽ rút ngắn thời gian thu hồi nợ, giảm chi phí xử lý nợ, chi phí trích lập dự phòng và rủi ro cho ngân hàng. Khi chi phí rủi ro nợ xấu giảm, ngân hàng có thể hạ lãi suất, hỗ trợ khách hàng tiếp cận vốn dễ dàng hơn.

Về việc ngân hàng nào được hưởng lợi nhiều nhất từ luật hóa Nghị quyết 42, VNDirect nhận định khó xác định do phạm vi áp dụng luật hóa là cho tất cả các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, theo nhóm phân tích quyền thu giữ TSBĐ được kỳ vọng sẽ thúc đẩy thời gian và giảm chi phí xử lý nợ xấu. Do đó, các tổ chức tín dụng tập trung cho vay bán lẻ, phải xử lý nhiều món nợ nhỏ và/hoặc chiến lược tập trung hơn vào mảng cho vay ô tô sẽ được hưởng lợi. Bên cạnh đó, luật hóa cũng sẽ hỗ trợ các tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc như MB, HDBank, Vietcombank, VPBank trong việc tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém.