Nợ có khả năng mất vốn chiếm quá nửa dư nợ xấu tại hàng chục ngân hàng
Nợ nhóm 5 chiếm 54% dư nợ xấu toàn ngành
Tính đến hết quý III/2025, tổng dư nợ xấu (nợ nhóm 3-5) của 27 ngân hàng niêm yết trong hệ thống ước đạt 272 nghìn tỷ đồng, tăng 19,5% so với đầu năm và tăng 2,5% so với cuối quý II.
Mặc dù dư nợ xấu tiếp tục tăng qua từng quý, tốc độ tăng có tín hiệu chậm lại trong vài quý gần đây. Cụ thể, sau quý đầu năm tăng mạnh nhất (+15,4% so với đầu năm, lên hơn 265 nghìn tỷ đồng), dư nợ xấu chỉ tăng nhẹ 1,2% trong quý II (so với quý I) và tăng 2,5% trong quý III (so với quý II).
Dư nợ xấu tăng chậm lại, cùng với đà mở rộng mạnh mẽ của quy mô tín dụng, đã đưa tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tính đến 30/9/2025 giảm về 2% từ mức 2,04% hồi cuối quý II.
Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành đi xuống trong quý III/2025 trong bối cảnh quy mô dư nợ xấu giảm tốc và tín dụng mở rộng mạnh mẽ. Ảnh: T.D tổng hợp
Về cơ cấu, nợ nghi ngờ (nợ nhóm 4) là nhóm có tốc độ tăng nhanh nhất với quy mô dư nợ tính đến hết quý III/2025 ở mức 72,4 nghìn tỷ đồng, tăng 35,5% so với đầu năm. Nợ dưới chuẩn (nợ nhóm 3) cũng tăng nhanh với mức tăng 23% so với đầu năm lên hơn 52 nghìn tỷ đồng.
Nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) là nhóm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dư nợ xấu, đồng thời cũng là nhóm có mức tăng thấp nhất.
Tính đến hết quý III/2025, tổng nợ nhóm 5 của 27 ngân hàng niêm yết trong hệ thống ước gần 148 nghìn tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm và chiếm khoảng 54% tổng dư nợ xấu toàn ngành (so với 55% hồi cuối quý II và 58% hồi đầu năm).
Có khoảng 2/3 số ngân hàng niêm yết ghi nhận tỷ lệ nợ nhóm 5 trên tổng quy mô dư nợ xấu trên 50%; trong đó một số nhà băng có tỷ lệ này ở mức cao như NCB (93%), Bac A Bank (80%), ACB (75%)..., phản ánh rủi ro mất vốn vẫn ở mức cao.
Hàng chục ngân hàng trong hệ thống có nợ có khả năng mất vốn chiếm hơn 2/3 tổng dư nợ xấu. Ảnh: T.D tổng hợp
Xét về số tuyệt đối, 3 ngân hàng dẫn đầu về dư nợ nhóm 5 tính đến 30/9/2025 lần lượt là ba nhà băng quốc doanh BIDV (29,4 nghìn tỷ), Vietcombank (12,3 nghìn tỷ), Vietinbank (11,8 nghìn tỷ), do đặc thù thị phần cho vay lớn. Dư nợ cho vay của 3 ngân hàng nói trên chiếm tới 43% tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng niêm yết trên toàn hệ thống.
Ngoài ra, một số ngân hàng TMCP tư nhân như Sacombank, SHB và NCB cũng có dư nợ nhóm 5 ở mức cao, lần lượt là 11,5 nghìn tỷ, 10,9 nghìn tỷ và hơn 8 nghìn tỷ đồng. Trong đó, riêng Sacombank có dư nợ nhóm 5 tăng gần 30% so với đầu năm. Còn SHB và NCB đều ghi nhận dư nợ nhóm 5 cải thiện, với mức giảm lần lượt 1,5% và 39%.
Xét về tỷ lệ, cả 3 ngân hàng gốc quốc doanh đều nằm trong nhóm có tỷ lệ nợ nhóm 5 trên tổng dư nợ ở mức thấp hoặc trung bình do đặc thù quy mô tín dụng lớn. Ngược lại, nhiều ngân hàng TMCP quy mô nhỏ ghi nhận tỷ lệ nợ nhóm 5 trên tổng dư nợ ở mức cao nhất ngành như NCB (8,47%), Saigonbank (2,3%), BVBank (2,2%)...
Với thực tế chất lượng tài sản yếu hơn các nhóm ngân hàng còn lại, các ngân hàng quy mô nhỏ có tỷ lệ nợ nhóm 5 trên tổng dư nợ bình quân (2,26%) ở mức cao hơn đáng kể so với các nhóm ngân hàng khác (bình quân 0,9% tại nhóm ngân hàng quốc doanh, bình quân 1,19% tại nhóm ngân hàng TMCP quy mô vừa và lớn).
Nhìn chung, nếu so với quý liền trước, dư nợ nhóm 5 tính đến hết quý III đã có tín hiệu giảm tốc, tương tự diễn biến của nợ xấu nói chung. Tổng dư nợ nhóm 5 toàn hệ thống tại ngày 30/9/2025 chỉ tăng nhẹ hơn 1% so với thời điểm cuối quý II, so với mức tăng 11% trong nửa đầu năm.
Trong khi một số nhà băng ghi nhận nợ nhóm 5 tăng mạnh so với quý II như TPBank (+61%), HBank (+22%), OCB (+18%), nhiều nhà băng báo nợ nhóm 5 giảm đáng kể như VietinBank (-22%), Kienlongbank (-17%), NCB (-13%)...
Chất lượng tài sản dự báo tiếp tục cải thiện trong quý IV
Cùng với việc dư nợ xấu tăng chậm lại, một tín hiệu tích cực khác trong bức tranh chất lượng tài sản ngân hàng là việc tỷ lệ nợ xấu hình thành mới vẫn ở mức thấp.
Đến hết quý III/2025, tỷ lệ nợ hình thành nợ xấu mới ước giảm 0,3 điểm % so với quý III.
VIS Ratings chỉ ra rằng các ngân hàng quốc doanh và một số ngân hàng thương mại lớn có ít dư nợ với các nhà phát triển bất động sản gặp khó khăn ghi nhận tỷ lệ nợ xấu giảm 0,2 điểm % so với quý II, nhờ vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp được cải thiện (như BID, CTG), và tỷ lệ nợ quá hạn từ các khoản vay mua nhà cá nhân giảm (như ACB, TCB).
Ngược lại, một số ngân hàng quy mô lớn và vừa khác ghi nhận mức tăng nợ quá hạn từ các doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng tái tạo (như MBB), các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên quan đến xuất nhập khẩu và ngành hàng không (như STB), hoặc từ các khoản vay mua nhà cá nhân (như TPB và HDB).
Dự báo cho quý cuối năm, nhóm xếp hạng tín nhiệm kỳ vọng tỷ lệ nợ có vấn đề toàn ngành sẽ giảm xuống còn 2,1–2,2% nhờ vào việc tăng cường xóa nợ vào cuối năm, trong khi Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2025 có hiệu lực từ tháng 10 qua sẽ giúp các ngân hàng thu hồi nợ nhanh hơn.
Tương tự, Chứng khoán Rồng Việt cũng kỳ vọng chất lượng tài sản toàn ngành sẽ tiếp tục cải thiện trong quý IV/2025 do các ngân hàng thường có xu hướng kiểm soát nợ xấu khá chặt chẽ trong quý cuối năm để đảm bảo các chỉ số đánh giá tiêu chí chất lượng tài sản tại ngày 31/12 hàng năm nằm trong ngưỡng thể hiện mức độ rủi ro thấp nhằm đạt điểm xếp hạng TCTD cao theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước. Bởi điểm xếp hạng cao là một trong các yếu tố giúp các ngân hàng có hạn mức tăng trưởng tín dụng cao hơn trong năm sau.
Xu hướng trên, cùng với bối cảnh tăng trưởng vĩ mô và môi trường pháp lý, đặc biệt của các dự án BĐS, năng lượng tài tạo gặp vướng mắc, đã trở nên khả quan hơn trong năm nay, dự kiến sẽ tác động giúp nợ xấu hình thành ròng trong quý IV/2025 tiếp tục giảm so với quý III/2025 (28 nghìn tỷ đồng). Theo đó, dự báo tỷ lệ nợ xấu toàn ngành cuối năm nay sẽ giảm về mức 1,8-1,9% từ mức 2% của cuối quý III.
Ảnh: VDSC
Chứng khoán Mirae Asset trong một nhận định mới đây cũng cho rằng xu hướng cải thiện chậm nhưng ổn định của chất lượng tài sản ngành ngân hàng sẽ tiếp tục được hỗ trợ bởi môi trường lãi suất thấp.
Trong đó, một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao bất thường đang đẩy nhanh quá trình đưa các chỉ số chất lượng tài sản về lại ngưỡng trung bình quá khứ. Ngoài ra, một số ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tăng cao chủ yếu xuất phát từ đặc điểm riêng của từng danh mục thay vì những rủi ro mang tính hệ thống, do đó không ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng chất lượng tài sản của toàn ngành.
Về bộ đệm dự phòng, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLCR) của toàn ngành đến hết quý III đã cải thiện 5 điểm % so với quý II, đạt mức 84%, dẫn đầu bởi các ngân hàng lớn (CTG, ACB, TCB và BID) nhờ vào mức nợ xấu giảm. Trong quý cuối năm, kỳ vọng các ngân hàng lớn sẽ tiếp tục dẫn dắt xu hướng cải thiện bộ đệm dự phòng của toàn ngành.