Bứt phá ở quý III, triển vọng doanh nghiệp dược vẫn sáng trong quý IV
Ngành dược vươn lên mạnh mẽ trong quý III/2022
Theo thống kê từ VietstockFinance, tổng doanh thu và lãi ròng của 28 doanh nghiệp (trên HOSE, HNX, UPCoM) ghi nhận lần lượt hơn 8,3 nghìn tỷ đồng và 819 tỷ đồng, tương ứng tăng 22% và 33% so với cùng kỳ. Trong đó có 18 doanh nghiệp lãi tăng trưởng dương so với cùng kỳ (với 1 doanh nghiệp chuyển lỗ thành lãi), 7 doanh nghiệp lãi giảm, và chỉ có 2 doanh nghiệp thua lỗ.
Dược Hậu Giang (DHG) tiếp tục khẳng định vị thế doanh nghiệp đầu ngành khi có doanh thu thuần đạt gần 1.162 tỷ đồng, tăng 23%, lãi ròng đạt 262 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ 2021. Luỹ kế 9 tháng 2022, DHG đạt doanh thu 3.723 tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ. Lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận ròng đạt lần lượt 836 tỷ đồng và 752 tỷ đồng.
Traphaco (HOSE: TRA) đứng thứ 2 trong số doanh nghiệp ngành dược lãi cao nhất quý III với doanh thu 604 tỷ đồng, tăng 6% và lợi nhuận ròng gần 72 tỷ đồng, tăng 11%. Sau 9 tháng, Công ty đạt doanh thu 1.826 tỷ đồng, lãi ròng hơn 230 tỷ đồng, tương ứng tăng 14% và 28% so với 9 tháng 2021. Với kết quả đạt được, TRA đã thực hiện được hơn 77% kế hoạch doanh thu và gần 88% mục tiêu lợi nhuận sau thuế cả năm.
Long Châu đóng góp 30% doanh thu của FRT với doanh thu 6.560 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm, tăng 162% so với cùng kỳ năm ngoái nhờ mở mới 492 cửa hàng. Thời điểm cuối tháng 9, Long Châu đang sở hữu 800 nhà thuốc trên cả nước, mở mới 400 điểm bán so với đầu năm, hoàn thành kế hoạch mở mới của cả năm. Một phần nhờ lực đẩy từ chuỗi Long Châu, lũy kế 9 tháng đầu năm, FRT ghi nhận doanh thu hợp nhất đạt 21.708 tỷ đồng, tăng trưởng 55% so với cùng kỳ năm ngoái. Lợi nhuận trước thuế đạt 369 tỷ đồng, gấp 2,7 lần 9 tháng năm 2021. Trong đó, chuỗi nhà thuốc Long Châu đóng góp khoảng 30% vào doanh thu hợp nhất của Công ty.
Luỹ kế 9 tháng, nhiều doanh nghiệp ngành dược khác cũng ghi nhận kết quả thuận lợi, như DMC hay DCL, với lãi ròng tăng lần lượt 27% và 79% so với cùng kỳ.
Triển vọng sáng của ngành dược những tháng cuối năm
Theo khảo sát do Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) tiến hành trong tháng 10 và tháng 11 năm nay, trong gần 90% số doanh nghiệp dược phẩm thì có tới 80% số doanh nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng lợi nhuận. Nhiều chuyên gia phân tích, dịch COVID-19 đã tạo sự chuyển dịch nhanh hơn trong cơ cấu doanh thu của ngành dược phẩm theo nhiều cách khác nhau.
Phân tích từ Vietnam Report cũng cho thấy chỉ số sản xuất công nghiệp ngành thuốc, hóa dược và dược liệu đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại từ quý I, với mức tăng trưởng 24,6% - gần đạt mức tăng trưởng so với cùng thời điểm năm 2020 khi đại dịch chưa bùng phát tại Việt Nam. Lũy kế 9 tháng đầu năm, chỉ số này đạt tăng trưởng 18,3%.
Trong báo cáo chuyên đề ngành dược tháng 8, CTCK Rồng Việt (VDSC) nhận định, nửa cuối năm 2022 của ngành dược được kỳ vọng sẽ tương đối khởi sắc từ mức nền thấp của năm ngoái. Nguyên nhân do dịch COVID-19 bùng phát lần thứ 4 tại Việt Nam khiến bệnh nhân bị hạn chế đến khám chữa bệnh tại bệnh viện. Đồng thời, người dẫn lựa chọn mua thuốc điều trị triệu chứng của biến thể Omicron tại kênh nhà thuốc dẫn tới sự dịch chuyển trong cơ cấu doanh thu ngành dược phẩm.
Sự gia tăng tiêu dùng đối với các sản phẩm vitamin hay thực phẩm chức năng để tăng cường hệ miễn dịch, củng cố sức khỏe trong bối cảnh "sống chung với COVID-19”. Nhà thuốc theo mô hình hiện đại giành được thị phần từ các hiệu thuốc truyền thống, khi Chính phủ dần đưa ra các quy định chặt chẽ hơn đối với các nhà bán lẻ dược phẩm, theo đó, kiểm soát chặt chẽ hơn đối với thuốc kê đơn và triển khai hình thức đơn thuốc điện tử. Kênh nhà thuốc có thể đã chiếm thị phần từ kênh bệnh viện, do các bệnh viện công đã thận trọng hơn trong hoạt động đấu thầu thuốc. Tất cả những nhân tố trên khiến cho tốc độ doanh thu của các nhà thuốc được duy trì ổn định ở mức 10% trong năm 2021 và tiếp tục cải thiện đến gần hết năm 2022.
Tương tự, Chứng khoán KIS Việt Nam cho rằng ngành dược trong quý IV/2022 vẫn còn nhiều động lực tăng trưởng tích cực, nhờ vào các bệnh viện đã hoạt động hết công suất, thúc đẩy nhu cầu thuốc khám chữa bệnh, thuốc đấu thầu tăng cao. Xu hướng hồi phục của ngành dược thực tế được tái khẳng định qua kết quả kinh doanh quý III vừa qua.
Nhìn về dài hạn, tổ chức nghiên cứu thị trường VIRAC nhận định ngành dược có nhiều tiềm năng trưởng cho cả các công ty tham gia sản xuất, cũng như những tập đoàn bán lẻ do quy mô dân số Việt Nam ở mức lớn đồng thời dân số cũng đang già đi với tốc độ nhanh. Nhận thức của người tiêu dùng với sức khoẻ cũng ngày càng nâng cao, tiêu thụ dược phẩm bình quân đầu người nói riêng sẽ nhiều hơn.
Từ thị phần phân tán đến tiềm lực tài chính mỏng: Thách thức vẫn bủa vây doanh nghiệp dược
Phát biểu tại Hội nghị kết nối doanh nghiệp Việt Nam - Ấn Độ trong lĩnh vực Dược phẩm và Y tế, TS. Tạ Mạnh Hùng – Phó Cục trưởng Cục Quản lý dược, Bộ Y tế đã chỉ ra 4 thách thức lớn mà ngành công nghiệp dược Việt Nam đang phải đối diện.
Thứ nhất, đối với ngành công nghiệp dược bào chế chủ yếu áp dụng các tiêu chuẩn của WHO GMP cho các dây chuyền sản xuất thuốc có hàm lượng dược phẩm công nghệ không cao. Các đơn vị sản xuất trong nước chủ yếu tập trung vào chất lượng thuốc đối với các tiêu chuẩn chất lượng hóa lý, hóa học bào chế, chưa chú ý nhiều đến việc đánh giá hiệu quả điều trị của thuốc. Rất nhiều loại thuốc đưa vào chương trình thuốc thiết yếu, thuốc do bảo hiểm y tế chi trả cũng chưa có sự phân tích về chi phí hiệu quả kinh tế một cách hợp lý.
Thứ hai, chưa chú trọng đầu tư phát triển các nhóm sản phẩm mới, các sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Các loại thuốc mới, vắc xin và sinh phẩm hiện nay còn rất hiếm, phần lớn phải nhập khẩu. Công suất sử dụng thiết bị, nhà xưởng còn thấp, gây lãng phí chi phí đầu tư.
Thứ ba, nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc chủ yếu là nhập khẩu (khoảng 90%) từ nước ngoài. Trong đó, chủ yếu là nhập khẩu từ Trung Quốc và Ấn Độ, có rất ít nhà sản xuất trong nước sản xuất được nguyên liệu phục vụ cho sản xuất dược phẩm. Hiện nay, các doanh nghiệp trong nước chủ yếu chỉ mới sản xuất được một số loại tá dược, nguyên liệu hóa dược vô cơ và một số ít các chất chiết từ dược liệu.
Đối với vắc xin và sinh phẩm, hiện nay trong nước có 4 đơn vị sản xuất và cung cấp các loại vắc xin, nhưng cũng chỉ mới sản xuất được 11 loại vắc xin phục vụ cho Chương trình tiêm chủng mở rộng, toàn bộ các loại vắc xin dịch vụ đều phải nhập khẩu.
Thứ tư, đối với hoạt động nghiên cứu thử nghiệm, hiện vẫn chưa có cơ sở làm dịch vụ nghiên cứu, kiểm nghiệm, phân tích chuyên sâu hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Năng lực cũng như trang thiết bị tại các Trung tâm nghiên cứu, kiểm nghiệm tại các địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, chủ yếu mới chỉ phân tích được một số chỉ tiêu chất lượng đơn giản.
Bên cạnh những thách thức này, theo ông Vũ Đăng Vinh, Tổng giám đốc Vietnam Report, các doanh nghiệp dược trong nước còn phải đối diện với sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành và chi phí nguyên liệu thô và sức ép từ tỷ giá gia tăng.
Hiện nay, ngành dược trong nước nhập khẩu dược liệu với tỷ lệ khá cao, lên tới 80-90%; trong đó, số nguyên liệu nhập khẩu từ Ấn Độ và Trung Quốc chiếm tỷ trọng lên tới 85% tổng kim ngạch nguyên liệu nhập khẩu. Việc phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu cũng khiến ngành dược chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài như biến động tỷ giá, nguồn hàng cung cấp; thêm vào đó là chi phí nhập khẩu khiến giá thành xuất khẩu thuốc của Việt Nam cao hơn khoảng 20-25% so với Trung Quốc, Ấn Độ.
Hoạt động cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cũng là một thách thức không mới đối với ngành dược phẩm. Nhiều lãnh đạo và chủ các doanh nghiệp cho biết, điểm yếu của doanh nghiệp trong nước chính là thị phần phân tán, quy mô nhỏ và tiềm lực tài chính còn mỏng. Khả năng tăng đầu tư vào nghiên cứu và trang bị công nghệ sản xuất bị hạn chế, khó khăn trong đầu tư dự án quy mô lớn, trong việc mua các sáng chế về dược, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công tác nghiên cứu phát triển sản phẩm….
Hầu hết các doanh nghiệp nội địa đều tập trung sản xuất các loại thuốc phổ biến trên thị trường, trong khi đó các loại thuốc chuyên khoa, đặc trị, yêu cầu kỹ thuật bào chế hiện đại lại không được quan tâm. Từ đó, gây nên tình trạng sản xuất chồng chéo, tranh giành phân khúc thị trường nhỏ giữa hầu hết các doanh nghiệp trong nước. Phân khúc thuốc đặc trị, chuyên khoa… với giá trị cao hoàn toàn do các doanh nghiệp ngoại chiếm lĩnh.