Ngân hàng bán lẻ tăng tốc nhờ bán buôn (Bài 1): Tín dụng khởi sắc, NIM vẫn chịu nhiều áp lực
Tính đến hết quý III/2025, tăng trưởng tín dụng bình quân của nhóm 5 ngân hàng bán lẻ ước đạt 17,9% so với đầu năm, cao hơn so với tăng trưởng tín dụng bình quân của nhóm các ngân hàng quốc doanh (12,3%), ngân hàng bán buôn (16,3%) và ngân hàng nhỏ (12,3%).
Ngoại trừ Sacombank ghi nhận dư nợ cho vay tăng 12,37% - thấp hơn trung bình ngành trong bối cảnh nhà băng này đang tiến đến những giai đoạn cuối cùng của tái cấu trúc, cả 4 ngân hàng bán lẻ còn lại đều đạt tăng trưởng tín dụng trên 15%, phản ánh sự mở rộng quy mô tín dụng mạnh mẽ.
Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC
Đáng chú ý, động lực chính cho tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm tại cả 5 ngân hàng bán lẻ không đến nhiều từ mảng cho vay bán lẻ và SME - vốn chưa thực sự khởi sắc như kỳ vọng, mà chủ yếu từ mảng cho vay doanh nghiệp vốn có lợi suất thấp hơn tương đối.
Xu hướng này bắt đầu từ khoảng giữa năm 2022, kể từ sau khi một số biến động vĩ mô tác động làm suy yếu chất lượng tín dụng bán lẻ, khiến cho phân khúc này đến nay vẫn chưa thể phục hồi như kỳ vọng. Điều này trái ngược hoàn toàn với giai đoạn trước đó, khi việc tập trung cho vay cá nhân và SME giúp các ngân hàng bán lẻ duy trì tỷ suất sinh lời trên tài sản sinh lãi cao (có ngân hàng lên tới 9%) với NIM bình quân khoảng 4-5%, thuộc top dẫn đầu toàn ngành.
Tăng tốc nhờ khách hàng doanh nghiệp
VIB hiện là nhà băng dẫn đầu hệ thống về tỷ trọng cho vay bán lẻ, nhưng đã chứng kiến tỷ trọng này giảm gần 7 điểm % trong 9 tháng đầu năm.
Cụ thể, theo BCTC, tính đến 30/9/2025, tỷ trọng cho vay hộ kinh doanh, cá nhân tại VIB đạt 71,6%, giảm từ mức 78,6% hồi đầu năm. Trong 9 tháng đầu năm, cho vay doanh nghiệp, với mức tăng ấn tượng 52,4% (so với mức tăng gần 5% của cho vay hộ kinh doanh, cá nhân), tiếp tục là động lực dẫn dắt tăng trưởng tín dụng ngân hàng sau mức tăng 67% trong năm 2024.
Danh mục cho vay theo nhóm ngành của VIB cũng hé lộ những dịch chuyển mang tính cấu trúc: một số phân khúc ghi nhận mức tăng trưởng mang tính dẫn dắt bao gồm cho vay kinh doanh BĐS (+190% so với đầu năm), cho vay dịch vụ tài chính (+84%), cho vay thương mại (+65%)... Sự dịch chuyển được cho là phù hợp cho chiến lược phát triển dài hạn, góp phần cải thiện tính đa dạng của danh mục tín dụng.
Còn tại ngân hàng bán lẻ có dư nợ cho vay tăng cao nhất trong 9 tháng đầu năm là VPBank, cho vay doanh nghiệp cũng bật tăng mạnh mẽ 39,2% và trở thành động lực chính cho tăng trưởng tín dụng trong khi cho vay hộ kinh doanh, cá nhân chỉ tăng 10,67%.
Theo BCTC quý III hợp nhất vừa công bố, tính đến 30/9/2025, dư nợ cho vay tại VPBank đạt 896.412 tỷ đồng, tăng gần 28,5% so với đầu năm. Trong đó, tỷ trọng cho vay hộ kinh doanh và cá nhân tại thời điểm cuối quý III đã giảm hơn 6 điểm % so với đầu năm xuống 38,37%, trong khi tỷ trọng cho vay doanh nghiệp tăng tương ứng lên 58,61% (không tính phần cho vay ký quỹ của công ty chứng khoán).
Nếu tính từ đầu quý III/2022 đến nay, tỷ trọng cho vay bán lẻ tại VPBank đã giảm liên tục từ mức 57% xuống chỉ còn hơn 38%, một phần do nỗ lực tái cấu trúc công ty tài chính tiêu dùng FE Credit, phần khác do tín dụng bán lẻ chưa phục hồi như kỳ vọng.
Tương tự, tại TPBank, động lực chính cho mức tăng trưởng tín dụng 18,27% trong 9 tháng đầu năm cũng đến chủ yếu từ mảng cho vay doanh nghiệp. Trong kỳ, cho vay hộ kinh doanh, cá nhân tại TPBank tăng 15,6% và chiếm tỷ trọng 47,8% danh mục cho vay, chủ yếu nhờ các chính sách cho vay mua nhà theo định hướng của Chính phủ. Trong khi đó, cho vay doanh nghiệp tăng tỷ trọng lên 52,2% danh mục cho vay nhờ tăng trưởng dư nợ đạt gần 21%.
Tại ACB, tính đến 30/9/2025, dư nợ cho vay của ngân hàng tăng 15,24%, thể hiện sự mở rộng quy mô tín dụng tích cực và có chọn lọc, đúng với tinh thần tăng trưởng bền vững mà nhà băng này theo đuổi. Chiến lược tín dụng cũng cho thấy sự dịch chuyển tạm thời sang mảng cho vay doanh nghiệp, vốn có lợi suất thấp hơn, trong bối cảnh tín dụng bán lẻ chưa thực sự khởi sắc.
Tính đến hết 6 tháng đầu năm, cho vay hộ kinh doanh, cá nhân tăng trưởng 8% và chiếm khoảng 63,5% tỷ trọng danh mục cho vay tại ACB, giảm nhẹ từ mức 64,2% hồi đầu năm. Cho vay doanh nghiệp tăng 11% trong nửa năm, đóng góp tích cực cho tăng trưởng tín dụng toàn ngân hàng.
Còn tại Sacombank, tín dụng tăng 12,4% sau 9 tháng. Ngân hàng không công bố danh mục tín dụng theo đối tượng khách hàng trong BCTC quý III, tuy nhiên đến hết 6 tháng đầu năm, cho vay cá nhân ước chiếm tỷ trọng khoảng 53,4% danh mục tín dụng, giảm nhẹ từ mức 54,3% hồi đầu năm do tăng trưởng cho vay cá nhân chỉ ở mức hơ 7%. Trong khi đó, cho vay doanh nghiệp tăng 11% so với đầu năm, giúp gia tăng tỷ trọng trong danh mục tín dụng lên 46,6%.
Kể từ giữa năm 2022 đến nay, tỷ trọng cho vay cá nhân liên tục giảm tại các nhà băng bán lẻ và chưa có dấu hiệu phục hồi, phản ánh một phần sự suy yếu chất lượng tín dụng của phân khúc này.
Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC
Thêm áp lực lên NIM
Trong khi ngành ngân hàng nói chung chịu sức ép suy giảm NIM do câu chuyện lãi suất duy trì ở mặt bằng thấp và chi phí vốn tăng, các nhà băng bán lẻ còn phải đứng trước một thách thức khác: việc động lực tăng trưởng tín dụng dịch chuyển sang mảng cho vay doanh nghiệp, vốn có lợi suất thấp hơn, đã tạo thêm áp lực lên NIM. Thống kê của MBS Research cho thấy các ngân hàng có tỷ lệ cho vay bán lẻ cao có mức suy giảm NIM đáng kể hơn so với toàn ngành.
ACB nằm trong nhóm nhà băng ghi nhận NIM giảm mạnh nhất toàn ngành trong 9 tháng đầu năm. NIM quý III/2025 ước giảm 0,7 điểm % svck do chi phí vốn tăng đáng kể (+0,4 điểm %) trong môi trường thanh khoản áp lực kéo theo lãi suất huy động gia tăng dù tỷ lệ CASA có cải thiện. Trong khi đó lợi suất tài sản ước giảm (-0,3 điểm %), một phần do ngân hàng duy trì lãi suất cho vay ưu đãi để giữ vững thị phần tín dụng cũng như việc mở rộng sang mảng tín dụng doanh nghiệp vốn có lợi suất thấp hơn mảng bán lẻ.
Ước tính 9 tháng đầu năm, lãi suất cho vay trung bình tại ACB đã giảm mạnh 0,8 điểm % trong khi chi phí vốn ước tăng gần 0,5 điểm % svck.
Tại VPBank, NIM quý III/2025 ước đạt 4,4%, cải thiện nhẹ so với quý trước (4,33%) nhưng tiếp tục giảm svck, phản ánh sự điều chỉnh lợi suất tài sản khi ngân hàng dịch chuyển từ mảng tín dụng tiêu dùng không tài sản đảm bảo sang các khoản vay có rủi ro thấp hơn. Ngoài ra, sự phục hồi còn chậm hơn kỳ vọng của công ty tài chính tiêu dùng FE Credit vốn có lợi suất cao cũng làm giảm đóng góp vào NIM, khiến NIM hiện tại của VPBank vẫn còn cách xa mức đỉnh ~6% của 2023.
NIM quý III/2025 của TPBank ước đạt 3,0%, giảm 0,6 điểm % svck, tiếp tục xu hướng suy giảm kể từ mức đỉnh hồi 2022. Tương tự như các ngân hàng khác, nguyên nhân NIM của TPBank thu hẹp chủ yếu do sự cải thiện nhẹ của lợi suất tài sản sinh lời không đủ bù đắp áp lực tăng từ chi phí vốn. Nhất là trong bối cảnh tỷ lệ CASA tại nhà băng này tiếp tục suy giảm. Lợi suất cho vay dù đã hồi phục ngang bằng so với quý đầu năm khi ngân hàng tăng cường cho vay các lĩnh vực lợi suất cao như bất động sản, nhưng vẫn tiếp tục xu hướng thu hẹp từ quý III/2023.
Trong khi đó, tại VIB, NIM hợp nhất đã có sự cải thiện trong 2 quý gần đây (QoQ) nhưng vẫn thấp hơn cùng kỳ 2024 khi lợi suất sinh lời của tài sản suy giảm trong khi chi phí vốn tăng giữa áp lực cạnh tranh lãi suất.
Kỳ vọng sự phục hồi của phân khúc bán lẻ cùng với tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn còn thấp hơn tương đối so với quy định (ở mức 22,9% tại cuối quý II/2025) tạo dư địa cho sự phục hồi NIM của VIB trong quý cuối năm cũng như 2026. Tuy nhiên xét cả năm 2025, giới phân tích cho rằng NIM của VIB vẫn khó phục hồi về mức 3,75% của 2024 và còn cách xa mức đỉnh hơn 4,7% của giai đoạn 2022-2023.
Riêng Sacombank là ngân hàng duy nhất trong 5 ngân hàng bán lẻ ghi nhận NIM cải thiện trong quý III/2025. Cụ thể, NIM quý III (QoQ) tại nhà băng này đạt 3,9% và là mức cao nhất trong 5 quý trở lại đây. Theo các chuyên gia VPBankS, Sacombank có thể đã ghi nhận lãi từ khoản bán KCN Phong Phú trong quý III vào thu nhập lãi thuần, do đó giúp tăng NIM kỹ thuật.
Trước đó, trong hai quý đầu năm, NIM QoQ của Sacombank ở mức ~3,5%, giảm so với cùng kỳ khi lãi suất cho vay bình quân tiếp tục giảm, một phần do chiến lược tìm kiếm động lực tín dụng từ cho vay khách hàng doanh nghiệp.
Trong một chia sẻ gần đây, Tổng giám đốc ACB Từ Tiến Phát cho rằng sự suy giảm NIM là vấn đề 'đau đầu nhất' đối với toàn ngành nói chung và ACB nói riêng.
Thực tế, diễn biến suy giảm NIM ở các ngân hàng bán lẻ trong nhiều quý gần đây, dù tương đồng với xu hướng giảm NIM của toàn hệ thống, nhưng bộc lộ một thách thức riêng: nếu như các ngân hàng này xem bán lẻ như là một trụ cột quan trọng trong tăng trưởng dài hạn, thì liệu rằng có phải tất cả họ đều đủ sức duy trì lợi thế ở mảng này trong tương lai? Nhất là khi ngành ngân hàng vừa trải qua một giai đoạn nhiều thách thức vì sự suy giảm chất lượng tín dụng ở phân khúc bán lẻ.
Còn tiếp: Ngân hàng bán lẻ tăng tốc nhờ bán buôn (Bài 2)