Chất lượng tài sản suy giảm ở nhóm ngân hàng quy mô vừa

Thùy Dung 16:11 | 29/05/2025 Doanh Nhân Việt Nam trên Doanh Nhân Việt Nam trên
Chia sẻ
Chất lượng tài sản toàn ngành ngân hàng có xu hướng giảm trong quý đầu năm khi tỷ lệ nợ xấu tăng lên và tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm. Nhiều ngân hàng không quá tích cực trong trích lập dự phòng nợ xấu dù chất lượng tài sản suy giảm.

Báo cáo cập nhật ngành ngân hàng mới đây của CTCP Xếp hạng Tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating) nhận định xu hướng gia tăng nợ xấu (NPL) từ các khoản cho vay mua nhà cá nhân trong phân khúc mang tính đầu cơ và từ các khách hàng doanh nghiệp gặp khó khăn dòng tiền trong 3 tháng đầu năm đã dẫn đến sự suy giảm năng lực tín nhiệm đối với một số ngân hàng quốc doanh và ngân hàng quy mô vừa. Ngược lại, các ngân hàng lớn vẫn duy trì ổn định nhờ hạn chế cấp tín dụng đối với các chủ đầu tư gặp khó khăn.   

Chất lượng tài sản phân hóa, ngân hàng không mặn mà trích lập dự phòng

Thống kê từ báo cáo tài chính quý I của 27 ngân hàng trong hệ thống cho thấy dư nợ xấu tại thời điểm 31/3/2025 đạt hơn 265,5 nghìn tỷ đồng, tăng gần 17% so với đầu năm. Trong đó, ngoại trừ một vài ngân hàng ghi nhận nợ xấu cải thiện so với đầu năm là NCB (giảm 21%), VietABank (giảm 49%) và SeABank (giảm 1%), hầu hết ngân hàng còn lại đều ghi nhận dư nợ xấu tăng so với đầu năm với mức tăng mạnh nhất đến từ các ngân hàng như TPB (57%), OCB (48%), BID (37%)...

Theo VIS Rating, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành trong quý I đã tăng 20 điểm cơ bản (bps) so với quý trước lên mức 2,5%. Hầu hết các ngân hàng trong hệ thống đều ghi nhận tỷ lệ hình thành nợ xấu gia tăng.

Trong 10 ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao nhất hệ thống tính đến hết quý I/2025, có 7 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ nợ xấu tăng so với đầu năm. Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC.

Các chuyên gia chỉ ra rằng tại một số ngân hàng tư nhân như VPB, MBB, OCB, TPB, VIB, sự gia tăng nợ xấu có nguồn gốc đáng kể từ các khoản cho vay mua nhà cá nhân trong phân khúc mang tính đầu cơ hoặc liên quan đến các chủ đầu tư bất động sản gặp khó khăn. Trong khi đó, tại một số ngân hàng quốc doanh như BID, CTG, nợ xấu cũng tăng, chủ yếu từ khách hàng doanh nghiệp trong lĩnh vực vật liệu xây dựng. 

Ngược lại, các ngân hàng lớn như ACB, TCB… có xu hướng duy trì tỷ lệ hình thành nợ xấu ổn định do hạn chế cấp tín dụng đối với các chủ đầu tư bất động sản gặp khó khăn. 

“Rủi ro tài sản tiềm ẩn đang gia tăng cho các ngân hàng quốc doanh có quy mô đáng kể đối với khách hàng là doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (ví dụ: VCB, BID), và đối với các ngân hàng có danh mục cho vay tài chính tiêu dùng cá nhân lớn (ví dụ: VPB, HDB, MBB), trong bối cảnh rủi ro thuế quan đối ứng của Mỹ”, báo cáo của VIS Rating nhận định.

Trong bối cảnh nợ có vấn đề gia tăng, bộ đệm hấp thụ rủi ro của ngành cũng có xu hướng suy giảm: tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành đã giảm từ 91% vào cuối năm 2024 xuống còn 80% tại thời điểm kết thúc quý I/2025. VIS Rating nhận định sự suy giảm này rõ rệt nhất ở các ngân hàng quốc doanh như BID, CTG và các ngân hàng quy mô vừa như LPB, TPB, VIB… Các ngân hàng nhỏ (KLB, NVB, VAB) vẫn giữ quy mô vốn ở mức thấp nhất do lợi nhuận khiêm tốn và tăng trưởng tín dụng mạnh trong quý đầu năm. 

Theo báo cáo tài chính, một số ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức thấp nhất toàn hệ thống tính đến hết quý I/2025 là NCB (11,2%), OCB (30%), Saigonbank (31,6%), VIB (38,6%), Eximbank (38,7%), PGBank (39%)... Nhiều ngân hàng ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu tiếp tục giảm dù dư nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu vẫn tăng.

SSI Research mới đây cũng nhận định chất lượng tài sản toàn ngành có xu hướng giảm trong quý đầu năm khi tỷ lệ nợ xấu (NPL) tăng lên và tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua. Đáng chú ý, các ngân hàng không quá tích cực trong trích lập dự phòng nợ xấu dù chất lượng tài sản suy giảm.  

Trong 10 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu thấp nhất tính đến hết quý I/2025, có 7 ngân hàng ghi nhận tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm so với đầu năm. Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC. 

Theo Ngân hàng Nhà nước, một số nguyên nhân chính khiến nợ xấu gia tăng là do: thứ nhất, nền kinh tế trong nước vẫn gặp nhiều khó khăn, chịu tác động khó lường của tình hình kinh tế thế giới và diễn biến phức tạp của thiên tai. Thứ hai, thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản phục hồi chậm. Thứ ba, thị trường mua bán nợ chưa phát triển như kỳ vọng, trong khi một số nội dung của Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội về xử lý nợ xấu chưa được luật hóa đã ảnh hưởng đến việc xử lý, thu hồi nợ của một số tổ chức tín dụng và tổ chức mua bán, xử lý nợ. Thứ tư, năng lực quản trị của một số tổ chức tín dụng còn bất cập so với quy mô, tốc độ tăng trưởng và mức độ rủi ro. 

Luật hoá Nghị quyết 42 có thể đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng xuống dưới 3%

Dự báo cho cả năm 2025, VIS Rating kỳ vọng tỷ lệ hình thành nợ xấu của ngành sẽ giảm nhờ thị trường bất động sản phục hồi làm giảm nợ xấu từ cho vay mua nhà cá nhân, cùng đó là các chính sách hỗ trợ của Chính phủ nhằm cải thiện khả năng trả nợ của các doanh nghiệp.

Dù vậy, các khoản chi trả cổ tức bằng tiền mặt lớn theo kế hoạch của một số ngân hàng quy mô vừa, chẳng hạn LPB, OCB, sẽ làm suy giảm bộ đệm vốn trong năm 2025, hạn chế khả năng hấp thụ các rủi ro tín dụng trong tương lai.

Nhóm phân tích SSI Research cũng kỳ vọng các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tài sản toàn ngành có thể dần cải thiện trong môi trường lãi suất được duy trì ở mức thấp cũng như các phương án hỗ trợ và cơ cấu nợ cho khách hàng từ phía các ngân hàng.

Ở góc nhìn thận trọng, FiinGroup đánh giá mặc dù tỷ lệ nợ xấu tăng trong quý I/2025 có tính mùa vụ, nhưng xu hướng này không chỉ đặt ra yêu cầu thận trọng hơn trong cấp tín dụng, mà còn gây áp lực lên chi phí trích lập dự phòng trong các quý tới, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì tăng trưởng lợi nhuận của toàn ngành. Đây là yếu tố cần theo dõi sát trong bức tranh lợi nhuận nửa cuối năm 2025.

Từ góc nhìn của Chứng khoán BSC, thu hồi nợ xấu sẽ là động lực quan trọng cho tăng trưởng lợi nhuận của một số ngân hàng trong 2025, bù đắp cho xu hướng hy sinh NIM đổi lấy tăng trưởng quy mô.

Theo đó, với triển vọng thị trường BĐS tiếp tục ấm lên về mặt thanh khoản nhờ khơi thông pháp lý, BSC cho rằng thu hồi nợ xấu sẽ là “chiếc lốp dự phòng” cho các ngân hàng cán đích lợi nhuận 2025, đặc biệt là các ngân hàng có tỷ lệ xóa nợ cao trong các năm qua và việc lựa chọn tài sản đảm bảo được đánh giá kỹ càng.

Tại ĐHĐCĐ thường niên 2025, ban lãnh đạo CTG kỳ vọng ngân hàng sẽ ghi nhận lợi nhuận từ thu hồi nợ đạt 10 nghìn tỷ trong năm nay, trong kịch bản cơ sở (so với 8,5 nghìn tỷ thực hiện được trong 2024). Tại ABBANK, Chủ tịch Đào Mạnh Kháng cũng nhận định bộ phận xử lý nợ xấu của ngân hàng đang là điểm sáng khi đã xử lý, thu hồi gần 4 nghìn tỷ nợ xấu, nợ có vấn đề trong năm qua và sẽ tiếp tục phát huy hoạt động hiệu quả trong năm nay.

Ngành ngân hàng hiện đang trông chờ việc luật hoá Nghị quyết 42/2017/QH14 giúp khơi thông xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm, qua đó hỗ trợ giảm tỷ lệ nợ xấu; đồng thời sẽ giúp cải thiện khả năng tiếp cận vốn và giảm chi phí vay. 

Theo các chuyên gia VNDirect, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD 2024 đang trình Quốc hội khóa XV xem xét tại kỳ họp hiện tại nếu được thông qua, luật sẽ mang tính ổn định và bền vững hơn nghị quyết trước đây, nhờ một số yếu tố.

Thứ nhất là phạm vi áp dụng mở rộng, khi luật mới áp dụng cho mọi khoản nợ xấu không giới hạn thời điểm phát sinh, thay vì chỉ giới hạn trước ngày 15/8/2017 như Nghị quyết 42.Thứ hai là việc tăng quyền cho TCTD, khi trao thêm quyền thu giữ và nhận lại TSBĐ (bổ sung các quy định nhận TSĐB trong vi phạm hành chính), giúp đẩy nhanh quá trình xử lý nợ. Thứ ba là ưu tiên áp dụng luật trong tranh chấp: nếu các quy định về thu giữ, kê biên và hoàn trả TSĐB được luật hóa đầy đủ, Luật TCTD sẽ được ưu tiên áp dụng trong tranh chấp dân sự và hành chính, trừ trường hợp liên quan đến tố tụng hình sự đang diễn ra.

VNDirect kỳ vọng việc luật hóa 3 điều khoản trong Nghị quyết 42 (quyền thu giữ TSBĐ; kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm TSBĐ cho khoản nợ xấu; hoàn trả TSBĐ là vật chứng trong vụ án…) sẽ giúp giảm tỷ lệ nợ xấu ngành ngân hàng xuống dưới 3%. Bởi, tính đến tháng 1/2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành ở mức 4,3%, tập trung tại một số ngân hàng yếu kém và diện kiểm soát đặc biệt.

“Chúng tôi kỳ vọng tỷ lệ nợ xấu toàn ngành sẽ giảm rõ rệt trong năm đầu triển khai nhờ việc xử lý mạnh các khoản nợ có TSĐB, dựa trên kinh nghiệm từ giai đoạn 2017–2021 khi Nghị quyết 42 có hiệu lực”, các chuyên gia VNDirect nhấn mạnh.

Ảnh: VNDirect.

Cũng theo các chuyên gia VNDirect, Luật hóa các quy định tại Nghị quyết 42 còn giúp giảm chi phí vốn vay cho doanh nghiệp và người dân – phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ. Các quy định rõ ràng và minh bạch sẽ rút ngắn thời gian thu hồi nợ, giảm chi phí xử lý nợ, chi phí trích lập dự phòng và rủi ro cho ngân hàng. Khi chi phí rủi ro nợ xấu giảm, ngân hàng có thể hạ lãi suất, hỗ trợ khách hàng tiếp cận vốn dễ dàng hơn.