FiinRatings: Tỷ lệ tín dụng trên GDP ước đạt 146% vào cuối năm nay
Tăng trưởng mạnh, tín dụng ước đạt 146% GDP vào cuối năm nay
Trong nửa đầu 2025, tín dụng toàn hệ thống tăng gần 10% so với cuối năm 2024 và khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước, đưa tổng dư nợ lên khoảng 17,2 triệu tỷ đồng – mức cao nhất trong hai năm qua. Tín dụng phục hồi mạnh ở cả phân khúc cá nhân và doanh nghiệp, với mức tăng lần lượt đạt 18,5% và 21,6%.

Tín dụng phục hồi mạnh ở cả phân khúc cá nhân và doanh nghiệp trong nửa đầu 2025. Ảnh: FiinRatings
Top 4 ngân hàng TMCP tư nhân bao gồm ACB, MB, Techcombank và VPBank dẫn đầu đà phục hồi, với tín dụng bán lẻ tăng khoảng 15– 20% so với cùng kỳ, tín dụng doanh nghiệp duy trì mạnh mẽ. Các ngân hàng TMCP khác tiếp tục bắt nhịp đà tăng sau giai đoạn chững lại năm 2022. Nhóm ngân hàng quốc doanh (SOCBs) duy trì tăng trưởng ổn định trong mảng doanh nghiệp nhờ nhờ nhu cầu vay từ chuỗi đầu tư công.
Tính đến 29/9/2025, tín dụng toàn hệ thống tăng khoảng 13,4% so với cuối năm 2024, mức cao nhất trong vòng 5 năm gần đây, tổng dư nợ ước vượt 17,7 triệu tỷ đồng.
Với việc tín dụng tăng tốc ấn tượng, tỷ lệ tín dụng/GDP tiếp tục tăng. FiinRatings ước tính tỷ lệ này sẽ đạt khoảng 146% vào cuối năm 2025, so với mức khoảng 134% vào cuối năm 2024 .
Triển vọng NIM phân hóa
Trong khi tín dụng được dự báo tiếp tục đà tăng trong các tháng cuối năm, triển vọng NIM dự kiến sẽ phân hóa giữa các nhóm ngân hàng.
FiinRatings dự báo ở nhóm 4 ngân hàng TMCP tư nhân dẫn đầu, NIM dự kiến ổn định trở lại, được hỗ trợ bởi tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) cao hơn; ROA duy trì vượt trung vị ngành nhưng thấp hơn mức đỉnh năm 2022, trong khi thu nhập ngoài lãi đóng vai trò ngày càng lớn trong cơ cấu lợi nhuận.
Ở nhóm ngân hàng quốc doanh (SOCBs), NIM duy trì ổn định dù vẫn thấp hơn so với nhóm ngân hàng TMCP tư nhân. ROA tiếp tục cải thiện nhờ lợi thế quy mô, với giao dịch ngoại hối và vàng trở thành các động lực chính.
Trong khi đó, nhóm các ngân hàng TMCP tư nhân khác dự báo sẽ ghi nhận ROA tiếp tục cải thiện nhờ tăng trưởng tín dụng và phục hồi phí dịch vụ; tuy nhiên vẫn chịu áp lực từ NIM thu hẹp. Trong bối cảnh đó, tốc độ tăng trưởng và kiểm soát chi phí là yếu tố then chốt.
Tính đến hết quý II/2025, NIM toàn ngành đã giảm xuống khoảng 3,3%so với 3,5% năm 2024 và mức đỉnh 3,8% năm 2022, trong khi ROA duy trì quanh mức ~1,5% nhờ chi phí tín dụng giảm và thu nhập ngoài lãi góp phần bù đắp áp lực biên lợi nhuận. Nguyên nhân khiến NIM giảm chủ yếu do chi phí huy động neo ở mức cao trong bối cảnh cạnh tranh huy động gay gắt và định hướng chính sách duy trì lãi suất tiền gửi nhưng hạ lãi suất cho vay, khiến chênh lệch lãi suất bị thu hẹp.

Trải qua giai đoạn 2022-2023 giảm mạnh, NIM của nhóm 4 ngân hàng TMCP tư nhân dẫn đầu dự kiến ổn định trở lại trong nửa sau 2025. Ảnh: FiinRatings
Rủi ro nợ xấu tăng tập trung cao hơn ở các ngân hàng quy mô nhỏ
Với việc tín dụng tăng cao, chất lượng tài sản ngân hàng dự báo vẫn chịu áp lực nhưng sẽ dần cải thiện.
Tỷ lệ nợ có vấn đề đã giảm dần trong giai đoạn 2024–nửa đầu 2025 so với mức đỉnh năm 2023. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) toàn ngành đạt xấp xỉ 1,9% trong nửa đầu năm 2025 (so với 2,2% cùng kỳ 2024). Nợ cần chú ý (SML) toàn ngành giảm còn 1,3% trong nửa đầu năm 2025 (từ ~1,9% trong năm 2024), cho thấy số lượng nợ xấu tiềm tàng đang thu hẹp. Trong khi đó, tỷ lệ xóa sổ nợ ròng (net write-off) trên dư nợ bình quân duy trì ổn định ở 1,1–1,2%, tương đương mức của năm 2023.
Các ngân hàng có xu hướng trích lập dự phòng sớm hơn trong chu kỳ tín dụng: Tỷ lệ bao phủ nợ xấu cho SML và NPL tăng từ khoảng 46% lên 53% trong giai đoạn nửa đầu 2024 đến nửa đầu 2025, cho thấy các ngân hàng chủ động trích lập dự phòng sớm hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ nợ xấu điều chỉnh lại giảm nhẹ và vẫn thấp hơn mức đỉnh năm 2022, phản ánh việc các ngân hàng đang dựa nhiều hơn vào hoạt động xóa nợ và thu hồi nợ, thay vì chỉ gia tăng trích lập dự phòng.

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ bình quân toàn ngành nửa đầu năm 2025 đạt 1,9%, đi ngang so với đầu năm nhưng giảm 0,3 điểm % so với cùng kỳ năm ngoái. Ảnh: FiinRatings
FiinRatings cảnh báo khi các chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ dần hết hiệu lực, một số khoản vay có thể chuyển thành nợ cần chú ý hoặc nợ xấu. Rủi ro này tập trung cao hơn ở các ngân hàng TMCP quy mô nhỏ, với bộ đệm vốn mỏng hơn.
Tuy nhiên, một số quy định mới có thể hỗ trợ đà phục hồi chất lượng tài sản. Cụ thể là việc triển khai chuẩn IFRS 9 (từ năm 2025 đối với các ngân hàng niêm yết và doanh nghiệp quốc doanh), yêu cầu mô hình ước tính tổn thất dự kiến mang tính dự báo cao hơn cùng yêu cầu công bố thông tin chặt chẽ hơn. Các ngân hàng có năng lực dữ liệu và mô hình quản trị rủi ro tốt sẽ thích ứng thuận lợi, trong khi các ngân hàng yếu hơn có thể phải tăng trích lập dự phòng.
Cùng đó là việc hoàn thiện khung pháp lý cho VAMC/AMC và Luật hóa Nghị quyết 42: Các quy định rõ ràng hơn về mua bán, xử lý nợ xấu và xử lý tài sản bảo đảm được kỳ vọng sẽ đẩy nhanh quá trình thu hồi nợ, tạo tác động tích cực cho các ngân hàng có năng lực xử lý nợ mạnh và danh mục tài sản bảo đảm lớn, đặc biệt là bất động sản.